LỚP PHẬT PHÁP CĂN BẢN CHÙA ĐẠI TỪ ÂN ” BÀI 1 ĐẠO PHẬT “
Được Công chiếu trực tiếp 20 giờ tối chủ nhật 02/05/2021 Trên kênh YouTube , Facebook Chùa Đại Từ Ân. Giảng sư: TT Thích Tiến Đạt Viện chủ chùa Đại Từ Ân.
Bài 1
Nay chúng ta sẽ học bài học đầu tiên
Tài liệu sử dụng, chúng tôi cũng xin thông báo luôn chúng ta sẽ sử dụng bộ Phật Học Phổ Thông để làm tài liệu chính để chúng ta học tập và trong sách có rồi thì tôi sẽ không đọc để chép và cũng không nói lại, chúng ta ở tự đọc sách, cái gì trong sách không có thì chúng tôi sẽ nói bổ sung.
Nội dung tài liệu để như vậy, bởi vì đây là cuốn sách biên tập rất phổ thông, tất cả mọi người đều có thể đọc được.
Bài đầu tiên hôm nay là bài Đạo Phật
Đạo mà chúng tôn thờ, chúng ta quy y gọi là đạo Phật, vậy đạo Phật là gì? Cái này là phải hiểu cho nó rõ và chính xác, không thì có người ta hỏi: – Các vị theo đạo nào; – Chúng tôi theo đạo Phật; người ta hỏi: – Thế đạo Phật là gì? – Đạo Phật là đạo Phật chứ là gì? Như thế người ta gọi là trả lời cùn không hiểu rõ. Chúng ta nên biết rằng Đức Phật nói một câu nói rất nổi tiếng “Ai tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Chúng ta tin Phật, chúng ta là đệ tử của Phật, chúng ta không biết Phật là ai, không biết ngài dạy gì- ngài nói đó là sự phỉ bang ngài, cũng giống như chúng ta là con của cha mẹ mà chúng ta không biết cha mẹ mình là ai. Không biết cha mẹ mình là thế nào cả, thì làm sao mà gọi là con của cha mẹ. Chữ Đạo Phật có rất nhiều nghĩa, nghĩa căn bản mà đơn giản nhất về chữ đạo- đạo là con đường. Đây là nghĩa căn bản của đạo, Đạo có rất nhiều nghĩa. Đầu tiên, đạo là con đường. Chúng ta muốn đi từ nhà chúng ta đến chùa Đại Từ Ân là phải có đường để đi, đường là cái gì? đường là nơi mà ta đi trên đó có thể đến được đích mà người ta cần tới.
Cho nên đạo là gì? Đạo là con đường mà chúng ta đi trên trên đó, để tới được cái đích mà chúng ta mong muốn. Đạo của chúng ta là đạo Phật, chữ Phật là giác ngộ, như thế chúng ta hiểu rõ rồi, đạo Phật là gì? Đạo Phật là con đường đi đến giác ngộ, nói chính xác nữa là đạo Phật là con đường đi đến để thành Phật. Đạo là con đường thành Phật – là chúng ta đi trên con đường này có thể thành Phật, chữ Phật là giác ngộ, nghĩa là con đường chúng ta đi đến sự giác ngộ. Đạo là con đường, con đường này người ta biết rằng là Đức Phật đã đi qua rồi. Con đường đó Đức Phật đã đi qua và ngài đã tới cái đích là thành Phật, còn chúng ta bây giờ mới bắt đầu đặt chân trên con đường này. Nhưng mà phải nhờ vào sự hướng dẫn của Đức Phật, bởi Đức Phật là người đã đi qua rồi, ngài biết rõ con đường đã đi như thế nào, cho nên đạo Phật là con đường mà Đức Phật đã giác ngộ. Phải xác định là đạo Phật, là con đường mà Đức Thế Tôn đã đi qua và đã giác ngộ, đã thành Phật. Ngài chỉ dẫn cho chúng sinh đi trên con đường đó để đến đích là gì? Giác ngộ giống như ngài không khác, cho nên nó mới có câu mà chúng ta thường nói đến là gì, chúng sinh là Phật chưa chưa thành, về Phật là Phật đã thành, cho nên bây giờ chúng ta học Phật phát tâm đi trên con đường này và muốn đi trên con đường này chúng ta không biết đường, cần phải có gì phải có người chỉ đường và người chỉ đường ấy là người đã đi qua con đường rồi ấy, rồi người ta mới chỉ được chứ còn chưa đi qua là không chỉ được, chỉ lung tung cho nên là người mà chưa từng đi qua thì sẽ không biết con đường ấy ấy thế nào cả, người ta bảo đi chỗ này quẹo chỗ kia sang chỗ kia, rẽ chỗ kia cũng không mường tượng được. Nhưng khi chúng ta đến rồi, tới giờ chúng ta biết đi như thế nào. Cũng giống như hôm nay chúng ta đã tới chùa Đại Từ Ân rồi, biết con đường nó đi rồi và nó như thế nào chúng ta có thể thấy rõ, khác với chuyện ở nhà nghe người ta mô tả, con đường đi đến chỗ này rẽ sang chỗ này đi, chỗ kia, rẽ chỗ kia người ta có chỉ dẫn như thế và chúng ta không đặt chân đi tới, chúng ta không thể biết được con đường như thế nào và không thể biết cái đích mà chúng ta cần tới Chùa Đại Từ Ân nó thế nào cả. Người ta có mô tả chi tiết đến thế nào chúng ta không mường tượng ra được, trừ khi chúng ta đặt chân lên đây, chúng ta tận mắt nhìn thấy thì mọi thứ rõ, rõ ràng ấy là sự giác ngộ.
Ở đây phân tích- chữ đạo thì có ba nghĩa.
Thứ nhất, đạo là con đường. Như đã nói, đây là nghĩa chính con đường thì mỗi người sẽ chọn cho mình một con đường khác nhau để đến một cái đích là có rất nhiều con đường khác nhau để đi tới mấy phải không. Nhưng mà cái người mà gọi là có trí tuệ, có khôn ngoan thì phải chọn cho mình một con đường nào phải bằng phẳng, nó phải dễ đi, nó phải an toàn và nó phải là con đường ngắn nhất. Trên thế gian này có rất nhiều đạo, đạo nào cũng là con đường cả, nhưng cái đích của mỗi đạo ấy nó khác nhau. Ví dụ như chúng ta nói đạo Thiên Chúa thì cái đích của người ta là gì? Đến với Thiên Chúa, nó là con đường để sinh thiên. Đạo Lão là con đường để đi theo con đường của Lão Tử, tức thành tiên. Đạo của Khổng Tử là đi theo con đường đó để trở thành Thánh Hiền của thế gian, Đạo Phật đi trên con đường đó để thành Phật, nên con đường khác nhau, mục đích khác nhau dẫn đến lộ trình phải đi hoàn toàn khác.Thế thì có rất nhiều con đường và trên thế gian này có rất nhiều đạo, trên thế giới này có hàng nghìn tôn giáo khác nhau. Việt Nam hiện nay có thể cũng có tới trên dưới 20 tôn giáo được Nhà nước công nhận chính thức, các tôn giáo mà không được công nhận chưa nói, được công nhận chính thức cũng là trên dưới 20 tôn giáo. Như vậy chúng ta không chọn con đường ấy, mà chúng ta chọn con đường này. Chúng ta phải hiểu lý do tại sao chúng ta chọn, so với các con đường khác.
Nghĩa thứ hai của Đạo, Đạo là gì, đạo là bổn phận. Ở đây mỗi người chúng ta sống trên thế gian này có rất nhiều bổn phận khác nhau, và chúng ta khi chúng ta làm trọn bổn phận của mình thì cái đó gọi là sống đúng đạo. Ví dụ lúc nhỏ chúng ta làm con, chúng ta có đạo làm con, lớn lên mà xây dựng gia đình, người phụ nữ có đạo làm vợ, người đàn ông phải có cái đạo làm chồng. Khi sinh con, sinh cái, chúng ta lại lên cái đạo làm làm cha, làm mẹ, giờ đến khi lớn tuổi nhiều vị ngồi đây lãnh đạo làm ông đạo làm bà. Đối với đất nước chúng ta có cái đạo làm công dân. Nếu chúng ta làm cán bộ, chúng ta có cái đạo làm cán bộ và nghề nào thì nó có cái đạo của nghề đó. Y đạo – đạo của thầy thuốc; đạo của người làm thầy giáo; đạo của người làm công nhân, kể cả cái đạo của người làm ruộng, cái đó đều là đạo cả. Đạo là gì? Đạo là bổn phận, nên tại sao ngài Ấn Quang nói một câu: Đôn luân tận phận, tức là phải sống hết luân thường, làm hết bổn phận thì đấy chính là đạo của người con Phật. Chúng ta muốn trở thành thành đệ tử của Phật, như hôm trước tôi nói rồi, trước hết chúng ta phải đủ tư cách là người đã, tức là phải tròn hiếu đạo đã, tức là phải làm người đàng hoàng, phải làm người chân chính, cái đó không ngoài hai chữ này đạo là bổn phận, mà chúng ta sống ở phạm vi nào, chúng ta phải làm tròn bổn phận phạm vi ấy. Người làm vợ mà không chung thủy với chồng, không lo hết bổn phận làm vợ người ta gọi là trái đạo làm vợ. Người đàn ông không lo lắng cho gia đình, không yêu thương vợ con, không làm hết bổn phận, trái đạo làm chồng, con mà không hiếu kính với cha mẹ, không biết vâng lời thì trái đạo làm con, người thầy không làm đúng bổn phận của mình thì trái đạo làm Thầy, và đệ tử mà không làm tròn bổn phận của mình thì cũng trái Đạo làm đệ tử, cho nên cái chỗ này là Đức Phật nói rõ trong bản kinh đó là kính Lễ Lộc Phương, hay gọi là Kinh Thiện Sinh, hay là Kinh Thi Ca La Việt. Đức Phật nêu ra sáu mối quan hệ, đó chính là chỉ cho chữ này là sống cho tròn bổn phận, chúng ta là đệ tử của Phật thì chúng ta phải thực hiện bổn phận, trách nhiệm của đệ tử của Phật. Phật thì có hai cái đặc trưng căn bản nhất chúng ta vẫn thường nói là gì? Từ bi và trí tuệ. Từ bi là yêu thương nhưng mà người đời thì cũng có yêu thương, từ bi của đạo Phật đến nó cao hơn cái quan niệm yêu thương của người đời. Bởi vì yêu thương của người đời là nó có điều kiện. Chồng yêu được vợ là người vợ phải thỏa mãn được các điều kiện của người chồng đặt ra, người vợ mà có thể yêu thương được người chồng thì người chồng cũng phải thỏa mãn được các điều kiện tối đa mà người vợ yêu cầu. Cha mẹ và có thể thương được con là đứa con nó phải thỏa mãn điều kiện của cha mẹ, nó mà không nghe lời mà nó không thỏa mãn được điều kiện cha mẹ, cha mẹ cũng khó mà thương được, cho lên tình thương thế gian tình thương đặt ra trong điều kiện có điều kiện, khi nó không thỏa mãn điều kiện ấy là người ta không thương nhau được. Vợ chồng, sở dĩ nó không sống với nhau được, bởi vì các điều kiện không thỏa mãn, không đáp ứng được, nhưng cái từ bi của Phật, không có điều kiện, không có điều kiện, không đặt ra bất kể điều kiện nào cả. Cho nên mới nói là coi tất cả chúng sinh bình đẳng. Bình đẳng, tức là không vì người này chăm chỉ đến với Phật và Phật thương nó hơn, Phật ban phúc cho nó, không phải vì đứa kia mà nó không bao giờ nói đến chùa mà Phật ghét nó và Phật Giáng họa cho nó, hoàn toàn không có chuyện này. Phải hiểu rõ tình thương ấy là xuất phát từ đồng thể, Phật và chúng sinh bình đẳng về mặt thể tính, cho nên Phật thấy chúng sinh giống như bản thân mình, vì thế mới yêu thương tất cả muôn loài, và yêu thương một cách bình đẳng, cho nên coi kẻ thù cũng như ruột thịt, coi súc vật tựa thể anh em, đấy chính là trường học Phật phải học, chúng ta học Phật là phải học tinh thần này, học từ bi. Thứ hai nữa là Phật là phải trí tuệ. Trí tuệ của Phật với chúng ta thường nói là đuốc trí tuệ, trí tuệ của Phật khác về trí tuệ thế gian. Trong Kinh thì không gọi đó là trí tuệ mà gọi đó là bát nhã. Bát nhã được dịch là trí tuệ nhưng mà sợ đã nhầm lẫn trí tuệ thế gian. Trí tuệ của Phật tại sao khác về trí tuệ thế gian. Trí tuệ thế gian của chúng ta là do học mà biết, do suy nghĩ mà biết, biết của chúng ta cũng biết có điều kiện, nếu không học thì không biết, nếu không suy tư chúng ta không biết và biết lại đặt trong phạm vi giới hạn của tâm sinh diệt, tức là vụ lợi. Người ta nghĩ cái gì, làm cái gì đều nghĩ xem là cái đó nó có lợi cho mình hay không. Nếu không có lợi như người xưa nói là dù mất một sợi lông chân thân họ cũng không chịu. Nhưng trí tuệ của Phật Bát Nhã, trí tuệ ấy là trí tuệ phải giúp cho người ta vượt qua được sinh tử và giải thoát khổ đau, thì đấy mới là trí tuệ. Còn tất cả những cái chúng ta hiểu biết đều nằm trong phạm vi của sinh tử hết, làm trong phạm vi của sinh diệt hết, nó nằm trong cái tư duy của con người, và tư duy ấy là do học mà biết suy luận và biết, đấy không phải trí tuệ, trí tuệ của Phật phát sinh từ đâu, phát sinh từ giới định tuệ. Cái đó không do thầy dạy, không phải học, mà do chứng ngộ, tuệ này là tuệ giải thoát. Tu chứng, tu đạt đến chỗ nào đó chứng ngộ được, đấy mới là tuệ giải thoát. Còn cái mà chúng ta học để biết đấy, đó là tư duy về mặt nhận thức, trong Phật pháp cái tư duy về mặt nhận thức của chúng ta, học theo cách logic là A, B, C là cái đó trong nhà Phật gọi đó là vô minh, tri kiến lập chi thị vô minh bản, do dùng cái chi kiến hiểu biết để suy luận theo ước đoán của chúng ta thì đó là gốc của vô minh. Nó không phải là trí tuệ, trí tuệ của Phật Pháp, cái mà phải đạt tới sự hiểu biết về sự hiểu biết đấy giúp cho chúng ta giải thoát được khổ đạu, giải thoát sinh tử và đạt đến đích rồi Giác ngộ, cái đấy mới với trí tuệ. Bổn phận của người đệ tử học Phật là phải học và thực hành hai cái đức tính này, tức là từ bi và trí tuệ. Và đấy chính là nói đến hai chữ đạo là bổn phận.
Nghĩa thứ ba của chữ Đạo – Đạo là chân lý. Nếu nói đạo là chân lý, cái chân lý này nó vô thủy vô chung, không có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc. Phật có ra đời hay không, có ra đời chân lý vẫn tồn tại. Chúng ta có tin Phật theo Phật hay không theo Phật, chân lý vẫn tồn tại. Đức Phật không phải là người sáng tạo ra chân lý mà Ngài chỉ là người chứng ngộ được chân lý mà thôi. Bởi vì khi Đức Phật chưa ra đời thì chân lý nó vẫn tồn tại. Đức Phật nhập diệt rồi cho đến muôn kiếp sau chân lý vẫn tồn tại. Chúng ta có tin Phật hay không tin Phật chân lý vẫn tồn tại, quốc gia có thay đổi, thời đại có thay đổi, con người có thay đổi, vận mạng và thay đổi, chân lý không đổi. Cho nên Phật có ra hay không ra đời thì chân lý vẫn thế thôi. Chúng ta có tin Phật hay không tin thật chân lý vẫn là như vậy, chứ không phải là chúng ta tin Phật thì chúng ta học theo đạo Phật thì mới bị cái chân lý nó chi phối, và người kia đã không tin đạo Phật thì không bị chân lý chi phối, cái đó hoàn toàn sai. Bởi vì chân lý đó tồn tại một cách độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chúng ta. Tôi nói đơn giản ví dụ thế này, chân lý về nhân quả chúng ta gọi là quy luật nhân quả, c húng ta có tin Phật không tin Phật, chúng ta có theo Phật không theo Phật, chúng ta có vẻ là người đạo Phật là người bất kể tôn giáo nào thể quy luật nhân quả nó vẫn chi phối tất cả, không phải là chúng ta theo đạo Phật làm ác mới có quả báo xấu, hoặc làm thiện thì mới có quả báo được phúc không phải. Chỗ đó chúng ta có theo hay không theo quả báo là vẫn tồn tại. Nó giống như cái cây gieo hạt đó thì nó sẽ lên thành cây, đó là nhân nào quả đấy, trồng dưa ra quả dưa, trồng cà ra quả cả. trồng đậu ra quả đậu, đó là chân lý không ai thay đổi cái chân lý được cả. Không phải là chúng ta tin Phật thì trồng quả dưa ra quả dưa, mà người ta không tin Phật trên đất trồng quả dưa nó ra quả cà, không có chuyện đó. Chân lý là sự tồn tại độc lập. Cho nên nhiều người xưa nay khi nói đến đạo Phật, người ta nhầm chỗ này, cho rằng Đức Phật là người sáng tạo ra chân lý. Không. Phật không sáng tạo ra chân lý, Phật chỉ là người thật chứng được chân lý và nói lại cho chúng ta biết mà thôi.
Cái chân lý là con đường mà ngài đã thực nghiệm, đã đi qua và thật chứng, nói lại. Cho nên bây giờ thỉnh thoảng nhiều người nói thế này, ví dụ quan điểm của đạo Phật, quan điểm của Đức Phật. Thực ra Phật không có quan điểm hoặc là chủ trương của đạo Phật, thực ra đạo Phật không có chủ trương, chủ trương mang tính cá nhân, mang tính ước thiết. Quan điểm là đứng trên một góc đứng ở góc này, nhìn một điểm nào đó gọi là quan điểm, quan là nhìn, đứng một điểm nào đó nhìn một sự kiện thì cái quan điểm nó sẽ lệch lạc. Phật không có quan điểm, nên xưa kia là có người đã từng hỏi Đức Phật, quan điểm của của sa môn Cồ Đàm là gì? Chủ trương của sa môn Cồ Đàm là gì? Đức Phật bảo không? Ta không có quan điểm, ta không có chủ trương. Nhiều người ngày nay, khi nói đến đạo Phật nói quan điểm của đạo Phật, cái đó nói theo cách thông tục của thế gian được, chứ hắn nói chính xác là Phật như thế không đúng. Phật không có quan điểm, Phật không có chủ trương, bởi vì nó là chân lý không thể quan điểm được, nó là chân lý không thể gọi là chủ trương được.Bây giờ ví dụ đất nước chúng ta có chủ trương thế này, chủ trương thế kia nhưng mà chủ trương có thể đúng vào thời điểm này, không đúng thời điểm khác. Có thể đúng với con người này, không đúng với con người khác. Quan điểm của tôi thế này, nhưng cái quan điểm của tôi chưa chắc là các vị chấp nhận, nhưng chân lý không thể không chấp nhận. Cho nên Đức Phật bác cái chuyện là ta không có quan điểm, ta không có chủ trương, chính là nói chỗ này, bởi chủ trương quan điểm là gì? Đó là sản phẩm tư duy của cá nhân, nó mang tính chất ức thuyết, tức ức đoán, anh chưa thật chứng, anh suy đoán là nó là thế này hay nói kia. Đức Phật thật chứng chân lý, thật chứng khác với quan điểm, đã biết rõ nó là như vậy và cái đó không thể thay đổi, quan điểm chủ trương thay đổi, quan điểm thế này mai này sẽ có quan điểm khác, thời đại thay đổi, quan niệm thay đổi theo, mỗi thời đại có mỗi chủ trương khác nhau, mỗi quan điểm khác nhau, nhưng chân lý không bao giờ thay đổi. Trên thế gian nói có một câu, nói phải củ cải cũng nghe, rất đơn giản nhưng rất đạo lý. Củ cải là vật vô tri vô giác, nhưng mà đúng chân lý thì tất cả vạn vật đều phải tuân theo. Người ta nói là nói phải củ cải cũng nghe, tức là nói đúng đến cả vật vô tri vô giác nó cũng phải thuận, huống hồ chúng ta là con người mà không biết thuận theo chân lý thì rõ ràng không bằng củ cải, không bằng cả cỏ cây. Bởi vì không hiểu chân lý này.
Đạo có 3 nghĩa. Một con đường, hai là nói đến thực thể chúng ta thực hiện bổn phận, và nói đến nghĩa tuyệt đối của chữ Đạo này là chân tình. Thứ hai là Phật, đạo đây thì có mấy nghĩa thế này. Thông thường chữ tiếng Phạn thì đọc Phật Bút Đa đấy, tổ tiên chúng ta gọi là Bụt, người Việt là dịch chữ Phật là Bụt, tiếng Ấn Độ, đọc là Bút Đa, Trung Quốc người ta dịch là Phật đà, Việt Nam chúng ta bây giờ là dùng tiếng Hán Việt, gọi tắt cái chữ Phật Đà và chữ Bụt này là Phật. Chữ Bụt, chữ Bút Đa, chữ Phật, chữ Phật Đà nghĩa là người giác ngộ. Cho nên ở đây có nghĩa là giác ngộ. Phật có nghĩa là tỉnh thức. Chữ Giác ngộ này, chữ Bút Đa, là Trung Quốc còn dịch nghĩa nữa bồ đề. Cho nên chúng ta có cái đạo Bồ đề, đạo Bồ đề đạo giác ngộ. Cái cây mà Đức Phật ngồi dưới đó để giác ngộ thành Phật gọi là cây bồ đề, đúng nghĩa cây đó phải cây giác ngộ. Bởi cây đó khi Đức Phật chưa giác ngộ thì Ấn Độ người ta gọi cái đó cây Tát Bát La. Thế nhưng khi Đức Phật ngồi dưới đó và giác ngộ rồi thì Đức Phật gọi cây đó là cây Bồ đề. Cây đó là cây Bút Đa đấy, dịch là Bồ đề, giác ngộ. Cho nên, nơi hiện nay di tích mà Đức Phật ngồi dưới cội Bồ đề giác ngộ đó, gọi là bồ đề đạo đạo tràng, đạo tràng giác ngộ. Cây mà Đức Phật bây giờ trồng trong Chùa gọi là cây bồ đề, phải hiểu cây bồ đề là cây giác ngộ. Ngài là người tỉnh thức, chúng ta sở dĩ là chúng sinh bởi vì chúng ta mê, mê gọi là chúng sinh, còn Phật đã hiểu rồi, đã giác ngộ rồi, được gọi là người tỉnh thức. Phật Đà gọi là giác giả, người giác ngộ. Vậy ngài giác ngộ gì? Hôm trước tôi nói rồi, giác ngộ chân lý ấy, đạo chính là chân lý và cái mà Đức Phật giác ngộ đó là chân lý của nhân sinh, chân lý của vũ trụ. Xưa nay nói là Đức Phật ngồi thiền 49 ngày đêm suy tư này khác, đến lúc mà Sao Mai mọc của ngày mồng 8 tháng Chạp thì ngài khoát nhiên đại ngộ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Tất cả các kinh sách, sử sách đều biết như vậy, nhưng mà hỏi lại về Đức Phật giác ngộ gì để thành Phật? Không ai biết. Ngài giác ngộ chân lý nhân sinh và vũ trụ. Trong kinh điển đại thừa thì gọi cái đó gì thật tướng của Pháp.
Thật tướng chính là chân lý, tướng thật của nó, tức là chân lý thật của nó, bản lai diện mục, trong nhà thiền gọi đó là bản lai diện mục, tức là mặt mũi xưa nay của nó là cái gì, cái gốc của nó là gì thì cái đó thật tướng, chân lý của vạn pháp. Trong vạn pháp chia ra làm hai loại. Trong tất cả các cái gì mà chúng ta gọi là vạn pháp chia ra làm hai loại. Một là tâm pháp, hai là sắc pháp. Cái này triết học gọi đó là duy vật duy tâm. Các pháp thì có chỉ có hai loại thôi, một loại là tâm thức, tâm thức của chúng ta, một loại vật chất. Thế thì nhân sinh chính là nghiên cứu về cái tâm này, vũ trụ chính là nghiên cứu đến cái sắc này. Con người chúng ta cũng có hai phần, Phần sắc là thân ngũ uẩn, vũ trụ vạn vật này như chúng ta cứ nghĩ rằng là cỏ cây không có tâm đâu, rồi đất đá nó không có tâm đâu, nhưng nó có tâm, chỉ có cái tâm của nó thô, không tế như loài người và các loài vật khác mà thôi. Nhưng đó đều có chứa đựng phần sắc pháp và tâm pháp ở trong đó. Cho nên Đức Phật chứng ngộ chân lý về con người, về vũ trụ, đấy chính là điều mà Đức Phật giác ngộ, bởi vì xưa nay về con người thì người ta nhầm tưởng, người ta có hai quan điểm. Một cho rằng con người là do Thượng Đế sinh ra, không phải là Thiên Chúa giáo mới có quan niệm này. Thời trước Đức Phật ra đời thì Ấn Độ cũng đã có quan điểm này rồi, và người ta tin rằng đó là Đại Phạm Thiên sinh ra vũ trụ, sinh ra con người và mọi hoạt động của con người sướng khổ, vinh nhục đều do Thượng Đế toàn quyền quyết định. Vì thế con người ta mà muốn được bình an, cầu khẩn Thượng Đế, van xin Thượng Đế để mong thượng đế thương yêu, và khi mà thượng đế thương yêu thì sống yên ổn, thượng đế mà không thương yêu là sống không yên ổn, đây là một loại quan điểm.
Một loại quan điểm thứ hai, người ta cho rằng con người cũng như vạn vật sinh ra và chết đi chẳng do ai cả, và chết đi là chấm dứt. Một loại quan điểm là do thượng đế cho nên sống gửi, thác là về. Vì thế cho rằng thế gian này là giả tạo, và người ta cầu để trở về với cuộc sống với Thượng đế là cuộc sống vĩnh hằng. Cho nên là có hai quan điểm. Một là chấp thường, chấp thường cho rằng có một linh hồn tồn tại vĩnh viễn và linh hồn ấy nó chuyển qua các thân này sang lần khác và cuối cùng lớn lên cõi người ta muốn là cõi trời. Còn một loại quan điểm thứ hai là chết hết, tức là chết đi không còn gì cả. Rơi vào hai quan điểm. Một là chấp thường, tức là cho rằng linh hồn thường hằng. Hiện nay chúng ta trên thế giới với quan niệm như vậy, Việt Nam chúng ta vẫn quan niệm như vậy, chết đi có một cái cõi âm, để cho người ta chết rồi xuống đó là ở, “sống gửi thác về” mà, chết mới trở về và ở đó nó trở thành vĩnh hằng. Cho nên bây giờ đấy xây dựng các công viên vĩnh hằng này khác, muốn rằng chết là cứ ở đó vĩnh viễn, và con cháu có nghĩ rằng các cụ là chết đi vĩnh viễn. Thế rồi xây nhà, xây cửa gửi xuống cho các phải không. Đốt quần đốt áo, từ quan điểm sai lầm dẫn đến cái gọi là mê, sai ở chỗ này. Một số người mà không cho rằng bác vô nhân quả là không có nhân quả nào cả, chết hết nên sống thoải mái, làm ác làm bậy, chết không sợ trừng phạt. Người ta cho rằng vũ trụ là do thần tạo, là thượng đế tạo ra con người và tạo ra vũ trụ. Tất cả những quan điểm như vậy, khi Đức Phật giác ngộ được chân lý này thì ngài thấy những quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Ngài mới chỉ ra cho chúng ta, ngài mới giác ngộ thật sự. Con người ta sinh ra từ đâu, chết đi sẽ đi đâu. Hiểu được bản chất của con người trong sinh tử ấy, trong cái mà luân hồi ấy thì, cái gì dẫn đến luân hồi, trong các kiếp luân hồi ấy, cái gì tạo nên những sự sai biệt của chúng sinh Chân lý Đức Phật giác ngộ và cái đó Đức Phật mới chỉ ra chúng ta cho một định lý, của chân lý về nghiệp, một chân lý về nhân nhân quả và luân hồi. Nói về vũ trụ cũng vậy, vũ trụ nơi hình thành thế nào, nó tồn tại thế nào, nó vận hành ra sao, rốt cục nó hủy diệt thế nào, ngoài trái đất ở đây thì còn tồn tại các thế giới nào khác, các vũ trụ nào khác, trong phạm vi vũ trụ ấy, thì các sự hình thành tương tác của nó thế nào. Con người ta sống gắn chặt với vũ trụ thì chúng ta tương tác với vũ trụ này thế nào. Chúng ta có thể làm cho vũ trụ này tồn tại, hay nó hủy diệt, hay biến đổi, hoàn toàn phụ thuộc con người, cái đó không phải là tự nhiên. Hiện nay chúng ta thấy các hiện tượng tự nhiên trái đất nóng lên, nước biển dâng thế này thế khác, chúng ta đổ tội đó là hiện tượng tự nhiên nhưng không phải nếu chúng ta hiểu được chân lý của Đức Phật này thì biết rõ, tất cả các hiện tượng đá đó đều là do nghiệp cảm của chúng sinh tạo nên, cái này là hoàn toàn là do con người tạo nên, hoàn toàn chúng ta tạo nên và muốn thay đổi cái đó phải thay đổi nhận thức của chúng ta, thay đổi hành vi của con người trên toàn nhân loại này thì có thể thay đổi cả thế giới này, và cái đó nó không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của của thượng đế, hay là một đấng tối linh nào cả, hoàn toàn không. Đức Phật tỉnh thức, Phật giác ngộ ấy chỉ là cái chân lý, chân lý về con người, chân lý về vũ trụ. Nói rộng vũ trụ thôi, nói đơn giản là con người là bản thân chúng ta, nhân sinh bản thân chúng ta. Và cái thứ hai là vũ trụ hoàn cảnh chúng ta đang sống. Ngôi nhà của chúng ta là cái vũ trụ nhỏ của chúng ta, thân thể của chúng ta, thân xác này nó nhỏ, nó là vũ trụ, còn cái tâm đó là cái nhân sinh. Giữa tâm và sắt trong cơ thể chúng ta, đó đã là một chỉnh thể của sắc tâm nhân sinh và vũ trụ. Cho nên toàn thế giới là đại vũ trụ, con người chúng ta là tiểu, các sự vận hành của giữa đại vũ trụ và tiểu vũ trụ này nó có sự tương tác lẫn nhau, có các lực tác động lẫn nhau, cho nên là trời đất biến đổi nóng lạnh này khác, ảnh hưởng tâm lý, ảnh hưởng đến sinh lý, ảnh hưởng đến vật lý. Trong con người ta có đủ cả ba yếu tố. Yếu tố vật chất, thân vật lý, có cái tâm thân về sinh lý, còn có tâm cao hơn là tâm gì? Vạn vật có đủ cả vật lý, sinh lý và tâm lý, và khi hiểu được bản chất này một cách triệt để có thể thấu triệt được tất cả vạn vật, tất cả vạn Pháp, tất cả con người. Cho nên Đức Phật chứng ngộ Ngài mới có thể biết được vô lượng kiếp trước Ngài từng là ai, sống ở đâu, làm gì, tên tuổi là gì? Vì sao lại sinh ra con người như vậy? Không biết riêng của ngài mà biết tất cả chúng sinh, chúng ta sinh ra từ đâu, đời ấy kiếp ấy tên là gì? Bố mẹ là gì, hành nghiệp là gì. Tất cả những thứ đó Phật giác ngộ, giác ngộ đến triệt để thì thấy tất cả, hiểu được tận cùng của vạn pháp. Cho nên khi Đức Phật giác ngộ điều đó, ngài tuyên bố về mặt chân lý, đánh đổ tất cả các hệ thống lý luận, đánh đổ tất cả mọi quan điểm trên thế gian, lúc bấy giờ và cho đến tận bây giờ và cho đến tận mai sau. Bởi người ta đều hiểu sai, học Phật để chúng ta trở về con người thật của mình. Hôm trước tôi nói là chúng ta sống có người bảy tám mươi tuổi rồi. Chúng ta không hiểu bản chất mình là ai cả, không hiểu bản chất cuộc đời này là gì cả.
Chúng ta không biết mình là ai và mình đang ở đâu trong cái cuộc đời này, trong thế giới này, và chúng ta luôn luôn sống trong sự lo lắng, sợ hãi. Cho rằng bị phụ thuộc vào các đấng thần linh, bị phụ thuộc vào đấng thiêng liêng, làm cái gì sợ là người này phạt, người kia phạt. Cho nên mới sinh ra cái tâm lý sợ hãi, mới trở thành mê tín, mới trở thành đi cầu khấn, mới trở thành người đi van xin người khác ban cho hạnh phúc cho mình, mà không biết rằng hạnh phúc là gì trong tầm tay mình, và con người mới là người quyết định tối thượng trong trời đất. Vận mệnh chúng ta là nằm trong bàn tay chúng ta, không nằm trong bàn tay người khác, không nằm trong bàn tay Phật, không nằm trong bàn tay của trời, không nằm trong bàn tay của đất. Con người phải là người quyết định cả trời đất. Không phải trời đất quyết định con người. Cho nên mới nói: “tam tài định vị độc nhân tối linh”. Trời đất và con người thì con người là gì? đầu đội trời chân đạp đất, con người mới là vật linh thiêng nhất trong trời đất, bởi vì trời và đất đó nó là hai thực thể vật chất, tâm nó không có đủ cả ngũ uẩn. Nhưng con người thì cái tâm nó đủ ngũ uẩn, sắc- thụ- tưởng- hành- thức. Đủ cái này cho nên là cái tâm linh mới linh động nhất, là hoạt động một cách nhạy cảm nhất, và nó mới có khả năng giác ngộ. Vì thế, trong trong sáu nẻo luân hồi, Đức Phật nói rằng chỉ có con người, thế là tối thượng và chỉ có con người mới có khả năng giác ngộ. Còn ngoài ra, tất cả các loại bài khác trong Lục đạo, cả trời không có khả năng giác ngộ. Vì thế, Đức Phật mới không sinh vào cõi trời mà phải hiện thân trong cõi người. Trước khi Đức Phật mà muốn xuống thế gian này, để thể hiện cái kiếp cuối cùng thành Phật, ngài cũng phải suy tính này. Ngài cũng phải đắn đo lựa chọn và ngài quan sát thấy tất cả sáu cõi luân hồi, duy chỉ có loài người mới có khả năng giác ngộ được, mà duy chỉ có loài người với khả năng tu được.
Còn Chư Thiên cũng không tu được chứ Thiên tuy rằng là nào họ có phần linh thức, nó nhạy cảm hơn con người nhiều, ví dụ như gọi là Thiên Nhãn Thông, Chư Thiên có Thiên nhĩ thông, cũng có khả năng có Tha tâm thông, một số khả năng là linh hoạt của nó hơn hẳn con người, nhưng nó lại có sự chướng ngại không bằng con người, cho nên không giác ngộ được. Cho nên không một vị Phật nào thành phật ở cõi trời cả mà, không có một vị chư thiên nào thành thật được cả, mà chỉ có con mới thành phần được thôi. Và tất cả chư Phật từ xưa đến nay đều phải hiện thân làm người, và phải hiện thân ở cõi người để chứng ngộ chân lý, giải thoát và hướng dẫn chúng sinh tu hành. Ở đây chúng ta mới nói đạo là con đường, Phật là giác ngộ. Phân tích nghĩa này chúng ta có thể định nghĩa một cách rộng chữ đạo Phật thế này. Đạo Phật là con đường mà Đức Phật đã tu hành, giác ngộ được chân lý của nhân sinh và vũ trụ. Ngài đem nó để chỉ dạy cho chúng sinh đi trên con đường đó để đạt kết quả giác ngộ, tức là bản thân ngài đã giác ngộ rồi và Ngài đem những điều mà ngài giác ngộ chỉ dẫn cho chúng sinh đi trên con đường đó để đạt đến kết quả giác ngộ thành Phật. Cho nên Phật mới nói -Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành, các ngươi cứ đi theo con đường của ta chỉ là nhất định các người tới đích, nhất các ngươi là thánh Phật. Chúng ta hiểu đơn giản ngắn nhất thì như trên tôi nói rồi, chỉ cần hiểu đạo Phật là con đường thành Phật, thế là đủ. Đạo Phật là con trưởng thành Phật và Đức Phật thì lượt đi trên con đường đó thành Phật rồi, bây giờ bắt đầu dạy học để đi, ngài đi rồi nê ngài thật chứng, vì ngài thật chứng, nên mới nói không phải là quan điểm, không phải là chủ chương. Đấy là con đường của sự thật, là con đường của chân lý, Ngài giác ngộ chân lý chứ không phải các luận thuyết hay quan điểm chủ chương, những điều đó là giác ngộ. Ngoài ra thì chữ Phật trong kinh điển đại thừa, đây quan điểm của kinh điển đại thừa thôi. Những điều mà chúng tôi nói chung cho quan điểm đại thừa và tiểu thừa, riêng Phật giáo Đại Thừa thì nói chữ Phật còn có ba nghĩa là tự giác Phật là giác tha, giác hành viên mãn. Cái này là định nghĩa đạo Phật đã nói rồi, ngài tự tu để giác ngộ. Sau khi giác ngộ rồi ngài mới đem cái đó để giác ngộ cho cho chúng sinh, và đạt đến cái chỗ là con đường giác ngộ và đức hạnh của ngài hoàn toàn đạt tới chỗ giác thành viên mãn. Xét như thế thì Kinh Hoa Nghiêm mới nói là có mười cái định nghĩa về Phật, ví dụ như danh tự Đức Phật, chúng ta là danh tự Đức Phật là nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tự tính Phật của chúng ta, với chư Phật là bình đẳng với nhau, cho nên gọi chúng ta là chúng sinh cũng được, nhưng mà gọi ta là Phật danh tự cũng được. Về mặt danh nghĩa, chúng sinh là Phật chưa thành, cho nên vẫn có thể gọi là danh tự Đức Phật, chúng ta chỉ có danh nghĩa là Phật thôi, nhưng chưa một tí thật nào là Phật cả. Cái đó danh tự Đức Phật, tu hành thì dần dần nó có phần chứng Đức Phật. Phần chứng thì trong kinh giải thích như thế này, chúng ta phá một phần vô minh thì chứng được một phần Pháp thân, chứng được một phần Phật. Ví dụ như mặt trăng tròn ngày 16 là 100 % và chúng ta bây giờ nó đang là mặt trăng mồng 1, tức là buổi tối nhìn lên không thấy ánh sáng nhưng nó vẫn thấy có cái vòng tròn đen kịt, chưa lộ ra một tí sáng nào cả. Đây là danh tự, ngày mồng 2 đã bắt đầu ló ra một tí. Đấy gọi là phần chứng. Mồng 3 sáng hơn mồng 4 sáng, mồng 5 sáng, 13,14 sáng hơn, 16 sáng tròn, cái đó gọi là viên mãn. Chúng ta nếu mà chưa tu, chưa học thì đều là mặt trăng mồng 1, dù nó không có ánh sáng nào trên đó vẫn có tên là mặt trăng, không thể ai gọi đó là mặt trời được cả. Không thể gọi đó là ngôi sao. Ví dụ như thế, nó vẫn là mặt trăng, mặc dù không nhìn thấy ánh sáng, một mùa chúng ta nhìn thấy mặt trăng là như này, nhưng mà toàn bộ cái này nó đen hết, không có một trí sáng nào cả, vẫn gọi là mặt trăng mồng 1. Chúng ta là Phật chưa thành, cái đó gọi là Phật danh tự, tu hành thì phá được phần nào thì chứng Phật phần đấy, nên có thể có người là được 3%, 5%, 10% các bậc hòa thượng, chư tăng, các bậc bồ tát thì có thể 5, 10%,15%. Có bồ tát tái lai là bảy tám mươi phần trăm, bởi vì các vị đã chứng đến cái ngồi bát địa mới có thể ứng hóa thân được. Đã bát địa thì phải 90 %, tức là nói đến sự giác ngộ chân lý là các ngài cũng nhìn thấy chân lý gần giống như Phật, giống như mặt trăng, nhìn thấy ánh sáng mà nó hơi có một lớp sương mờ. Các ngài cũng đã chứng được chân lý nhưng mà chưa nhìn thấu 100 %. Nhìn được 80 %, tỷ lệ thành Phật 80%, tức cũng nhìn thấy mặt trăng, mặt trăng rất sáng, vẫn là mặt trăng hôm rằm, nhưng nó có một cái lớp mây mờ, lờ mờ, còn chỗ chưa rõ, trong Kinh nói đó là gì đó, đó là cái vi tế vô minh, vô minh là không sáng, còn có một chút thôi. Có một chút nữa, đợi bao giờ mà quét sạch vô minh ấy, tu một kiếp cuối cùng để thị hiện thành Phật như Đức Thích ca lúc bấy giờ thành Phật 100%. Trước khi thành Phật ngài cũng chỉ là Bồ Tát ở cung trời Đao Lợi, đấy là bồ tát chứng thập địa, đối với vi tế các công hạnh vẫn còn phải một kiếp nữa sinh trở lại làm người thế gian, rồi mới đạt đến công viên mãn. Lúc đó mới thành Phật được. Đó lộ trình như vậy. Ta sang cái phần thứ hai là đạo Phật có từ bao giờ, đây nói về đặt ra câu hỏi về đạo Phật có từ bao giờ? có xét về mặt chân lý ấy, Đạo là chân lý, cho nên là đạo Phật có từ vô thủy và nó tồn tại đến tận vô chung. Nên không có cái bắt đầu và không có chỗ kết thúc. Nó vô thủy vô chung, đó là chân lý tồn tại vĩnh viễn, vĩnh hằng, không có điểm khởi đầu. Dù thế giới này là chưa hình thành, trái đất của chúng ta chưa hình thành, thì đạo Phật cũng đã có rồi, cho dù trái đất này nó hoại diệt thì Đạo Phật vẫn cứ tồn tại. Nó không phụ thuộc vào vào quan điểm chủ quan của chúng ta, không thụ phụ thuộc vào con người và vật chất xã hội này. Cái đó nói về mặt chân lý, chân lý là sự tồn tại vĩnh hằng, vĩnh viễn không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc. Nhưng nói về mặt lịch sử hiện nay, chúng ta cho rằng là đạo Phật có từ khi mà Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai giác ngộ thành Phật. Hiện nay là quan điểm đạo Phật chỗ này là nhiều người không rõ, cho rằng là đạo Phật có từ khi Đức Phật ra đời, và lấy ngày Đức Phật đản sinh là ngày mồng 8 tháng 4 hoặc Rằm tháng 4, năm 624 trước Công nguyên là sự ra đời của đạo Phật, nói như thế là không chính xác. Bởi vì khi ngài sinh ra là ngài chưa thành Phật, lúc bấy giờ sinh ra sự đản sinh của Bồ Tát thôi. Chúng ta quen chúng ta cứ gọi là Phật Đản, nhưng mà không, bao giờ ngài thành Phật là thành Phật, lúc ngài sinh ra là vẫn là hiện thân Bồ Tát.
Mà đã hiện thân bồ tát cho ngài là con người bình thường. Ngài phải có cha, có mẹ, có sinh ra rồi lớn lên, rồi ăn học cũng như mọi người bình thường có lấy vợ, sinh con vv… Cái đó chỉ là bồ tát. Đó không phải là Đức Phật. Phải từ năm ba mươi mốt tuổi, thì cái thời điểm khi Đức Phật giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni thì lúc bấy giờ mới đánh dấu sự ra đời của đạo Phật. Nhưng nếu nói chính xác hơn nữa, sự ra đời của đạo Phật phải đến khi Đức Phật giảng bài kinh đầu tiên, tại vườn Lộc uyển, tức là chuyển pháp luân và lúc bấy giờ phải độ cho được 5 người đệ tử đầu tiên xuất gia học đạo thì đạo Phật chính thức vào thời điểm đó mới được nói là thành lập, vì nó có đầy đủ cả Phật – Pháp – Tăng. Nếu chưa đầy đủ cả Phật – Pháp – Tăng thì lúc bấy giờ về mặt lịch sử đấy, chưa gọi là đạo Phật ra đời được. Bởi vì chỗ kia chỉ là chỗ giác ngộ của Đức Phật thôi. Còn giác ngộ ấy phải là gì đem giác ngộ cho chúng sinh, mới có phần tự giác, chưa có phần giác tha, giác tha Đức Phật phải thuyết pháp, phải độ chúng sinh và tăng đoàn được thành lập, ngôi Tam Bảo phải hiện hữu ở thế gian thì phải đến khi Đức Phật giảng bài kinh đầu tiên ở vườn Lộc Uyển. 5 người nhóm ông Kiều Trần Như, xin Đức Phật xuất gia thì thời điểm ấy mới đánh dấu là về mặt lịch sử hiện tại. Lịch sử hiện tại tôi nhắc lại là như vậy, Đạo Phật xuất hiện ở thế gian ra đời. Tại sao lại nói chữ hiện tại? Bởi vì trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có vô lượng các Đức Phật ra đời rồi, cho nên ít nhất trong kinh điển ghi nhận Đức Phật giới thiệu từ đức Tỳ Bà Thi Phật, Đức Thi Khí Phật, Đức Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Đức Ca Diếp Phật, Đức Thích Ca Văn Phật, đến Đức Thích Ca Mâu Ni là vị Phật thứ tư trong huyền kiếp. Trong quá khứ, kiếp đã có 1000 vị Phật ra đời và đã nhập niết bàn rồi. Trong cái kiếp hiện đại này thì có cũng có 1000 Đức Phật ra đời và Đức Phật Thích Ca Mâu ni là vị Phật thứ tư, sau đó còn có 996 Đức Phật nữa. Trong thời tương lai Tinh Tú kiếp còn một nghìn Đức Phật nữa, cho nên có bộ kinh Tam Thiên Phật, tức là 3000 vị Phật. Hiện nay số Đức Phật ra đời trên địa cầu của chúng ta đây nhé, là đã có 1004 Đức Phật xuất hiện và tương lai là còn 1996 Đức Phật nữa xuất hiện địa cầu, và khi đó địa cầu hết sức chịu tải, nó sẽ không còn nữa. Đấy là mặt chân lý, mặt sự thật. Cũng có lúc địa cầu này nó sẽ bị biến mất, bởi vì vạn vật có sinh là phải có có diệt, con người chúng ta có sinh là phải có tử. Trái đất này có hình thành, nên thành có trụ, nó bị hủy hoại cho đến khi nó biến mất không còn gì cả. Sau khi thành trụ hoại không như thế rồi, nó lại hình thành trở lại. Khi hình thành trở lại thì lúc bấy giờ mới lại xuất hiện sự sống của vạn vật, xuất hiện sự sống của con người, lúc bấy giờ lại có Chư Phật ở thế giới khác đến đây để thành Phật. nối tiếp như vậy cho nên nói vô thủy vô chung, có trước khi trái đất này ra xuất hiện và mãi khi trái đất này nó hủy hoại rồi, hình thành trái đất khác thì Phật pháp vẫn tồn tại. Trong Kinh chúng ta có một thuật ngữ Tam Thiên Đại Thiên thế giới, đấy là một tiểu kiếp, một 1000 lần của tiểu thế giới ấy gọi là một chung thế giới, 1000 chung thế giới thành một đại thế giới, và phạm vi giáo hóa của một Đức Phật, Đức Phật ra đời thì phạm vi giáo hóa và ảnh hưởng của ngài là Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tức là tính ra 1 tỷ hành tinh của chúng ta nằm trong phạm vi giáo hóa của một Đức Phật. Vì thế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có danh hiệu Thiên bách ức hóa thân, thiện bách ức đó là gì? Một tỷ, nó có một tỷ hành tinh của chúng ta, trong 1 tỷ hành tinh đó đều có Đức Phật Thích Ca giáo hóa, cho nên ngài mới có khả năng thiên bách ức hóa thân, thế là hóa thân ra trăm ngàn vạn ức.
Trong thuật ngữ của Phật giáo nói, thế giới của chư Phật thì thế giới của Đức Phật nào cũng đủ một tỷ cái tiểu hành tinh của chúng ta. Hiện nay loài người mới chỉ phát thể hiện ra cái thế giới mình đang ở thôi, cố gắng là kết nối các thế giới khác để tìm xem là có sự sống hay không, nhưng cũng chưa vượt ra khỏi một tiểu hành tinh này.
Nhưng Đức Phật bằng cái tuệ quán của Đức Phật, ngài có thể nhìn thấy suốt Tam Thiên Đại Thiên thế giới ấy, tức là 1 tỷ hành tinh. Phạm vi vận hành của nó, phạm vi các chúng sinh sống ở đó như thế nào, và nghiệp cảm của chúng sinh ở đó thế nào, thì Đức Phật đều giác ngộ triệt để, đều thấy và hiểu biết một cách triệt để.
Theo xưa kia mà nói đến Tam Thiên Đại Thiên thế giới, mới nói thế giới nhiều như cát sông Hằng, là người ta không tin được. Cho đến cả bây giờ người ta chưa khám phá ra được. Vì thế mới nói là về mặt lịch sử, chúng tôi vẫn nhắc lại một chữ là đây nói lịch sử hiện tại của chúng ta thôi, thì chúng ta ghi nhận là đạo Phật có từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật và chuyển bánh xe Pháp luân. Nói về mặt thế giới hệ, đạo Phật có từ vô thủy vô chung, xác nhận là như vậy. Hiện nay chúng ta có dùng cái Phật lịch, để giải thích luôn. Bây giờ là Phật lịch là 2560 năm, Phật lịch là không tính năm Đức Phật sinh ra, cũng không tính những năm Đức Phật thành đạo, mà Phật lịch được tính từ năm Đức Phật nhập niết bàn. Năm này tính đến năm nay là Đức Phật vắng bóng trên thế gian này, chúng ta gọi là vắng bóng đấy, ở tiểu hành tinh của chúng ta thôi, chứ thực ra bây giờ là ngài đang thuyết pháp trong một tỉ cái tiểu hành tinh mà trong phạm vi giáo hóa của Ngài. Cho nên nói là Đức Phật không có diệt. Phạm vi giáo hóa của ngài là một tỷ. Ngài đang chỉ không có mặt ở cái tiểu hành tinh của chúng ta thôi. Còn hiện ngài vẫn đang thực hiện công cuộc giáo hóa của ngài ở các tiểu hành khác. Vì thế Phật lịch của chúng ta là tính từ khi Đức Phật nhập niết bàn. Sau mỗi khi Đức Phật nhập niết bàn, mỗi một năm chư Tăng ăn cư ba tháng, thì đến thời điểm kết thúc an cư 3 tháng thì được tính là năm thứ nhất. Cho nên Phật lịch bây giờ chúng ta tính nào, phải là ngày mười sáu tháng bảy, năm nay mới là năm 65, còn bây giờ vẫn phải là năm 64 nhưng chúng ta lại cứ tính theo âm lịch là bắt đầu là đến Tết ghi lịch 2565 rồi. Trong giới luật quy định, là kết thúc mỗi năm ăn cư, chư tăng đem con dấu chánh pháp đóng quyển luật, và tính đó là một năm, cho nên là chư tăng mỗi năm 3 tháng ăn cư, kết thúc ba tháng ăn cư được tính 1 tuổi. Ngày 16 tháng 7 hàng năm là ngày Tết của chư tăng . Trong Phật pháp có 3 ngày kỷ niệm, về mặt lịch sử có ba mốc kỷ niệm. Ngày Phật, trong kinh gọi là Phật nhật, ngày của Phật. Ngày Phật để đây có ba ngày kỷ niệm chính.
Ngày Phật đản đản sinh. Ngày 15 tháng 4 âm lịch là ngày Phật đản. Ngày thứ hai là ngày Đức Phật thành đạo, mồng 8 tháng 12 âm lịch, năm Ngài 31 tuổi. Ngày 15 tháng 2, ngài 80 tuổi – ngày này là ngày Ngài nhập niết bàn. Ngoài ra, Phật giáo Đại thừa còn tính thêm cái ngày Đức Phật xuất gia, mồng 8 tháng 2 âm lịch, năm ngài 19 tuổi. Đây là theo quan điểm Phật giáo Đại thừa, 4 ngày, đó là ngày Phật, ngày kỉ niệm Phật, Phật nhật ấy. Ngày kỷ niệm về Pháp- pháp Nhật, ngày kỷ niệm Pháp, ngày đầu tiên Đức Phật chuyển bánh xe Pháp luân lần đầu tiên thì ngày đó được gọi là ngày Pháp, theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, ngày đó vào ngày Rằm tháng Giêng, nhưng Phật giáo Nam truyền thì người ta ngày Đức Phật chuyển Pháp Luân là người ta lấy ngày 15 tháng 4, cho nên gọi là ngày tam hợp ấy. Ngài Đản sinh, ngày thành đạo, ngày niết bàn- đều 15 tháng 4. Nhưng mà Phật giáo Đại Thừa thì lấy đó là ngày 15 tháng Giêng. Cho nên là dân gian bây giờ là không hiểu ngày 15 tháng Giêng là ngày gì mà cứ bảo là lễ cả năm không bằng lễ rằm tháng Giêng, ngày này là ngày Đức Phật giảng bài Pháp đầu tiên và Tam Bảo được thành lập. Ngày đó cũng là ngày kỷ niệm đặc biệt Phật giáo Nam truyền người ta kỉ niệm cái ngày chư thánh hội họp, vào thời điểm đúng ngày 15 tháng Giêng, trước khi Đức Phật nhập niết bàn, thì tất cả các vị A La Hán, đệ tử của Đức Phật đều tập hợp một chỗ, cho nên ngày đó là Chư thánh hội họp. Các bậc thánh nhân đều hội họp một nơi. Người ta cho rằng là khi các bậc thánh nhân hội họp như thế là cầu đắc, nên gọi đó là ngày rằm tháng giêng.
Thế còn cái ngày thứ ba là ngày của Tăng đấy, ngày 15 tháng 7. Theo quan điểm Phật giáo Bắc truyền, ngày này là tự tứ của thập phương tăng và cũng là ngày kỷ niệm Tết Vu Lan. Ngài Mục Liên cứu mẹ nhưng trong kinh Vu Lan nói đó là ngày để tự tứ. Cho nên chúng ta có ngày kỷ niệm của Đức Phật, ngày kỉ niệm của Pháp, ngày kỷ niệm của của Tăng, về mặt lịch sử ghi nhận các ngày kỷ niệm như vậy.
Thực ra những ngày tháng năm về lịch sử của Đức Phật, cũng phải nói thật là hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau và cũng chỉ mang tính tương đối thôi. Phải xác định là như vậy. Mặc dù Đức Phật là con người lịch sử, nhưng vì kinh điển lưu truyền thời Đức Phật cho đến khi chuyển sang Việt Nam, Trung Quốc sự chuyển dịch có vấn đề khác nhau về mặt cách thức tính lịch. Thứ hai nữa là các kinh điển ghi chép về Đức Phật, thì ngày xưa không ghi rõ ngày, tháng năm. Sở dĩ như vậy, cho nên khi truyền dịch sang ấy, thì có rất nhiều vấn đề về mặt ngày tháng, và bây giờ thì hiện tại là Phật giáo thế giới là tạm công nhận. Chúng ta phải xác định là tạm công nhận, những ngày tháng như thế là kỷ niệm Đức Phật. Bởi vì trong các Kinh điển sau này thì chúng ta biết là kinh Phật chỉ ghi là nhất thời Phật tại, chỉ ghi mỗi chữ nhất thời, không ghi ngày tháng, năm này, giờ này không ghi.
Sang phần thứ ba là người khai sáng đạo Phật. Về mặt lịch sử, người khai sáng ra đạo Phật trên trên thế giới này hiện nay là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Về mặt lịch sử hiện tại, thì người khai sáng đạo Phật là Đức Phật Thích ca mâu ni, sa ki a mâu ni. Chữ Thích Ca là họ của ngài, họ Phật là Thích Ca. Thích Ca thực ra là Ấn Độ là dịch nghĩa nữa Cồ Đàm, cho nên chúng ta mà khi đọc kinh người ta gọi Đức Phật Sa môn Cồ Đàm ấy, cồ Đàm chính là Thích Ca, Mâu Ni là tên của ngài, chữ Thích Ca thì Trung Quốc dịch là năng nhân, Mâu Ni dịch là tịch mặc.Thích Ca Mâu Ni là năng nhân tịch mặc, năng nhân nghĩa là người hay thực hiện đức nhân từ, năng nhân là từ bi, năng là khả năng, nhân là nhân từ, Mâu Ni là Tịch Mặc, là sự vẳng lặng trong tâm, cái đó là trí tuệ. Khi tâm chúng ta định, đạt đến sự tịch mặc thì lập tức trí tuệ nó phát sinh, cho đạt danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là từ bi và trí tuệ, đặc điểm của Đức Phật thì đều lấy từ bi trí tuệ làm nền tảng, danh hiệu của Phật. Thích ca mâu ni cũng là từ bi trí tuệ và danh hiệu của Đức Phật A Di Đà cũng là từ bi trí tuệ. Danh hiệu của Đức Phật Dược sư cũng là từ bi trí tuệ. Bản chất nó không có khác nhau, có lẽ là biểu hiện ra cái tướng bên ngoài gọi cái tên khác nhau thôi, chứ bản chất không khác. Đức Phật nào cũng là từ hai cái thể từ bi trí tuệ và thành Phật hết. Nói về lịch sử Đức Phật thì nếu chúng ta học kỹ nguyên về lịch sử Đức Phật dài lắm. Trong kinh Phật có một bộ kinh, gọi là Phật Bản Hạnh tập kinh.
ghi nhận là do chính Đức Phật kể lại lịch sử của mình, tiểu sử của mình cho các đệ tử. Trong cái Phật Bản Hạnh thì dẫn câu chuyện nguồn gốc của dòng họ Thích Ca từ bảy đời, tức là từ Đức Phật ngược lên đến 7 đời trước, rồi sau đó mới dẫn đến vô lượng kiếp tu hành của Đức Phật. Cho đến khi ngài thành một vị bồ tát cung trời đao lợi, có tên là Hộ Minh. Khi ngài chuẩn bị xuống thế gian này để đầu thai, tu hành hình Phật, ngài quan sát những gì, ngài suy nghĩ, ngài lượn chọn những gì, ngài xác định là sinh ra ở đâu, đầu thai vào nhà ai, thuộc tầng lớp nào, vào thời điểm nào, thì tất cả những thứ đó, những chuyện đó đều có ghi chép, những thứ đó đều nằm trong sự suy tính sẵn của Đức Phật, cái đó để nói cho chúng ta một cái gì, con người chúng ta sinh ra hoàn toàn không chủ động được, chúng ta không tự quyết định được và chúng ta bị cái gì chi phối bởi nghiệp lực. Còn chư Phật thì chủ động trong việc sinh ra, chủ động trong việc từ bỏ thế gian này và các ngài lựa chọn cho tất cả mọi vấn đề, bởi vì đã đạt đến giác ngộ, không còn bị nghiệp lực chi phối nữa, cái đó gọi là tùy duyên. Các ngài muốn tới thì tới, các ngài muốn đi thì đi, muốn đầu thai vào đâu, muốn sinh vào chỗ nào, thời khắc thế nào, tất cả đã được dự tính. Cái đó chư Phật hoàn toàn chủ động, còn chúng sinh chúng ta sinh ra chết đi, là nằm trong phạm vi bị động. Về cái này là nói rõ việc giữa Phật Bồ Tát. Cho nên một số các bậc tu chứng cũng có thể chủ động trong cái việc sinh tử này, tức là các ngài có thể là đời này kiếp này tu, các ngài không có chủ động lúc sinh ra được, nhưng chủ động lúc chết đi được . Nhưng kiếp sau hoàn toàn có thể chủ động được chỗ sinh ra được, nếu đời này đã giác ngộ đến một phần nào đó, cho nên gọi là, những người tu trình độ thường nói là “dự chi thời chí”. Biết trước ngày giờ chết, xác định được lúc chết, cần đi lúc nào hoặc giả như các vị Đạt Lai Lạt Ma trên thế giới có thể xác định được đầu thai vào đâu, kiếp sau tái lai ở đâu. Cái đó hoàn toàn chủ động được.
Đức Phật thì là người đạt đến điểm cao nhất, cho nên Đức Phật quyết định. Thế là toàn bộ cuộc đời giáo hóa Đức Phật nói rõ trong bộ kinh này, kinh này có tới 20 quyển. Một cái bàn thứ hai nữa là ngày xưa thì chúng tôi học, bộ Thích Ca Phổ, ghi chép về lịch sử của Đức Phật, nhưng ở đây là ghi chép thông qua các kinh điển và tập hợp lại thành một cái bộ Thích Ca phổ. Ngoài bộ Thích Ca Phổ, còn có Thích Ca Trí, tức là ghi chép những nơi mà Đức Phật đã đặt chân tới, những người mà Đức Phật đã gặp và những bài Pháp mà Đức Phật đã giảng. Ví dụ như bài Pháp này giảng vào mùa hạ thứ mấy, Đức Phật giảng ở đâu, cho đói tượng là ai, có ghi chép niên khổ, từng năm một, từng tuần tháng một, để học lịch sử Đức Phật kỹ thì học như vậy. Nhưng mà đây thì chúng ta chỉ cần học sơ lược thôi, không không đủ thời gian để chúng ta học, một bộ lịch sử Đức Phật học tới nơi tới chốn phải học mất 1 năm mới xong. Nhưng nếu học hết một năm lịch sử Đức Phật, học theo cách ấy thì cũng nắm được toàn bộ cuộc đời và giáo lý của Đức Phật. Tức là ví dụ năm nay Đức Phật ở đâu, ngài giáo hóa cho ai đó, ngài giảng kinh gì, nội dung kinh ấy là nhằm đến ai. Ngày xưa là phải học như vậy. Bây giờ thì người ta chỉ biết tập lịch sử theo vắn tắt, là Đức Phật sinh ra ngày này, năm này là trưởng thành, năm này xuất gia, năm này là nhập niết bàn thế thôi. Trong Phật học phổ thông cũng chỉ giới thiệu cho chúng ta ở mức độ như vậy thôi. Nếu muốn nghiên cứu kỹ thì nó thuộc về chuyên sâu, về mặt lịch sử Đức Phật sinh vào ngày là ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 trước Công nguyên, ghi nhận theo lịch sử bây giờ. Bây giờ là ghi vào ngày trăng tròn. Thực ra trong kinh điển, Đức Phật sinh ra vào ngày giữa tháng trăng sáng, tháng Vesak, ghi như thế là chính xác. Nhưng đây tôi giải thích từ ngày mồng 8 với ngày tháng chạp, lịch cổ của Ấn Độ thì 15 ngày là 1 tháng, cho nên bây giờ từ mùng 1 cho đến ngày 15 của chúng ta đây này lịch Ấn Độ gọi đây là tháng trăng sáng, bạch nguyệt. Từ ngày 16 đến ngày ba mươi hoặc 29, là tháng hắc nguyệt, tháng bạch tức là trăng sáng dần lên, thắng hắc là trăng là tối dần đi. Thế thì Đức Phật sinh vào ngày giữa tháng của tháng Trăng sáng, giữa tháng thì nó là ngày mồng 8, mà tháng đấy là tháng Vesak. Cho nên bây giờ gọi là lễ Vesak, cái tên của Ấn Độ tháng đó tháng Vesak thì tính ra tương đương tháng năm dương lịch, tức là bây giờ chúng ta trong cái thằng năm dương lịch này, ngày nào là ngày trăng tròn ngày đó là tính bây giờ, nhưng mà trước kia thì tính là mồng 8 nên bây giờ bảo mùng 8 là đúng hay là 10 rằm đúng, nhưng mà bây giờ thì một tháng là ba mươi ngày mà ngày giữa tháng phải là ngày 15, cho nên mới chuyển sang là giữa ngày 15 là ngày trăng trăng tròn, chứ ngày xưa không có ghi là ngày trăng tròn mà Đức Phật sinh vào ngày giữa tháng của tháng trăng sáng. Trăng sáng với trăng tròn khác nhau, giữa tháng của tháng trăng sáng thuộc tháng Vesak, Vesak là có tiền Vesak hậu Vesak. Tiền là 15 ngày đầu, còn 15 ngày sau tháng hắc gọi là hậu, tháng Vesak thì nó tương đương tháng 5, khi mà chuyển dịch sang Trung Quốc thì ngày giữa tháng là ngày mồng 8 giữa tháng, giữa tháng của tháng hắc là ngày 23. Vì thế trong Phật giáo mới lấy cái ngày này làm nghề trai này, mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30, bởi vì cái ngày này đó là ngày giữa tháng, ngày rằm, ngày này là ngày đầu tháng vào cuối tháng liền kề.
Vì thế Phật giáo Việt Nam bây giờ không dám nói là lấy vào ngày rằm nữa. Lại tổ chức kỷ niệm Phật đản là tuần Phật đản từ mồng 8 đến 15. Bởi vì chúng ta có đủ cả hai truyền thống, nam truyền thì người ta công nhận là ngày rằm, ngày rằm tháng 5, là ngày trăng tròn tháng năm dương lịch tức là rằm tháng tư, nhưng bắc truyền thì người ta vẫn làm vào ngày mùng 8. Ví dụ như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc người ta vẫn vẫn kỷ niệm ngày mồng 8 tháng 4, nhưng mà Nhật Bản, nói một chút, người ta đã dùng lịch dương rồi. Người ta kỉ niệm ngày Đức Phật đản sinh làm mồng 8 tháng 4 dương lịch, Nhật Bản ngày xưa dùng âm lịch như chúng ta, bây giờ là họ bỏ âm lịch rồi. Tất cả các lễ hội theo âm lịch là chuyển sang bằng ngày dương lịch hết. Đó là Nhật Bản ăn Tết âm lịch của chúng ta là ăn Tết vào đúng Tết dương. Ngày Đức Phật đản sinh là họ kỷ niệm vào ngày mồng 8 tháng 4 dương lịch.
Cho nên theo đề xuất của Nhật Bản, thì Phật giáo thế giới lấy ngày mồng 8 tháng 4 là ngày Phật giáo quốc tế rồi. Bây giờ nó có một ngày Phật giáo quốc tế mà kỷ niệm trên toàn thế giới đấy là ngày mồng 8 tháng 4 dương lịch. Cho nên chúng ta nhiều khi, người nọ cãi nhau vào ngày này, ngày kia, phải hiểu rõ nguồn gốc như vậy. Mồng 8 cũng đúng, bây giờ bảo rằm cũng đúng, mà tôi quan niệm là ngày nào cũng đúng, không phải ba phải, ngày nào cũng là ngày Phật đản sanh hết.
Bởi vì trên Tam Thiên Đại Thiên thế giới này có hằng hà sa số Phật và chúng ta một năm chỉ có 365 ngày, thì mỗi một ngày có mấy Đức Phật đản sinh, ngày nào cũng có Đức Phật đản sinh. Nói thế về mặt chân lý tuyệt đối là như vậy. Còn đây chúng ta đang nói về mặt lịch sử, ghi nhận theo lịch sử. Ghi nhận theo chân lý thì thế giới này có Hằng Hà Sa số chư Phật, một năm có 365 ngày, mỗi ngày có hàng nghìn Đức Phật đản sinh.
Về mặt lịch sử ghi nhận là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là con người lịch sử, trong Phật giáo thì chúng ta tiếp cận với Đức Phật, nói rõ là có ba Đức Phật khác nhau. Có khi học lịch sử mới cả chúng ta đọc các câu chuyện Phật giáo chúng ta không phân biệt được. Chúng ta có ba Đức Phật, hiện nay trong kinh sách mà chúng ta không phân biệt được, chúng ta không biết là Đức Phật nào. Một là Đức Phật lịch sử, nên thế giới phương Tây và những người nghiên cứu thần học người ta cố gắng để dựng lại cái con người lịch sự thật của Đức Phật, tức là nói thật như thế nào phải đúng như thế về mặt con người. Nhưng các tư liệu lịch sử thì bây giờ là rất khó để xác định. Bởi vì các kinh điển mà hiện nay chúng ta có, kể cả kinh điển Nam truyền, chỉ được ghi chép vào 400 năm sau Đức Phật nhập Niết Bàn, cho nên những cứ liệu lịch sử thì rất khó đoán định. Bây giờ thông qua khảo cổ chỉ là có di tích chứ, còn ngày giờ tháng năm và con người thật là khó. Phần lớn ngày nay chúng ta tiếp cận với Đức Phật là Đức Phật Tôn giáo, Đức Phật mang mang màu sắc tôn giáo.
Tôi nói thế này là Đức Phật tôn giáo đây này, Phật Đản chúng ta nói Đức Phật sinh ra rồi bước đi bảy bước, dưới chân là bảy bông sen, trên trời có chín con rồng phun nước tắm cho ngài, rồi tay phải chỉ trời tay trái đất, cái đó là Đức Phật tôn giáo.
Nếu đặt vấn đề – một người mà sinh ra nói năng như thế, xong lại nằm yên trong nôi bú mẹ lớn lên à. Nhưng xưa nay chúng ta tin là tên Đức Phật này, chúng ta không biết vật lịch sử này, chúng ta học Phật là học Đức Phật lịch sử này. Cuối cùng thứ ba là có Đức Phật lý tưởng. Người ta xây dựng nên hình ảnh lý tưởng mang tính chất tuyệt đối, đấy là Đức Phật lý tưởng, Phật là phải thế này, thế kia. Cho nên trong cái hệ thống giáo lý của Phật thì ba cái Đức Phật này, ba Đức Phật này thành lập lên hệ thống giáo nghĩa Tam thân Phật. Đây là báo thân, đây là hóa thân, vì Đức Phật tôn giáo nên nó phải biến hóa, nó phải mầu nhiệm. Đây là Đức Phật lý tưởng, là Đức Phật pháp thân. Cái này phải tách bạch ra cho lên khi chúng ta đọc kinh, đọc sách là không học kỹ cái này, chúng ta không biết được đâu là đúng lịch sử, đâu là Đức Phật lý tưởng, đâu là Đức Phật tôn giáo. Về sau khi Đức Phật nhập niết bàn rồi thì với cái tâm mong muốn, bắt đầu là các hình tượng, các câu chuyện về biến hóa, về thần thông, về mầu nhiệm này khác các thứ là gắn vào Đức Phật để nó tỏa hào quang. Thành ra Đức Phật biến hóa, trở thành Đức Phật tôn giáo, mang màu sắc tôn giáo, mang màu sắc thần bí, mà phần lớn thì bây giờ chúng ta là hôm trước tôi nói đạo Phật không phải là tôn giáo, nhưng mà bây giờ nó mang màu sắc tôn giáo, cho nên là người ta xưa nay vẫn nói về Đức Phật mang màu sắc Đức Phật, phải biến hóa thần thông, màu nhiệm này khác, các thứ, làm mọi việc, cùng tận này khác các thứ rồi toàn năng toàn chi toàn giác, cái gì mà toàn hết. Lý tưởng hóa Đức Phật thành Đức Phật pháp thận. Cho nên Phật bao giờ trên Tam Bảo thờ bao giờ cũng có ba vị là tam thân Phật- Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Hay gọi là tam thế chư Phật, quá khứ hiện tại, vị lai. Vì khi học chúng ta đang đang nói đề về Đức Phật lịch sử, phải nghiên cứu về con người lịch sự thật. Muốn như thế thì phải bóc tách được quan niệm về Đức Phật tôn giáo Đức Phật. Sau đó chúng ta mới nghiên cứu đến Đức Phật tôn giáo, những gì là mang màu sắc tôn giáo, và màu sắc tôn giáo ấy, hình tượng ấy biểu thị cho ý nghĩa gì? Ví dụ như câu chuyện Phật đản đi 7 bước nói gì, 7 bông hoa sen là biểu thị cái gì; chín Rồng phun nước biểu thị cái gì, tức là nó mang tính chất biểu pháp ấy, giải mã được các biểu tượng đó, thì mới hiểu được Đức Phật tôn giáo này. Rồi nói đến chân thân của Phật mà đối với chúng sinh là pháp tính bình đẳng thì bản chất nó thế nào thì bóc tách những cái này ra thì mới hiểu được Phật pháp thân này. Chúng ta mà không rõ cái này. Phần lớn những người học Phật, kể cả là những người xuất gia, tại gia ra tôi nói thế thôi, nếu không rõ chỗ này là khi đọc trong các kinh điển, không biết kinh đó đang nói đến Đức Phật nào, mà không hiểu được nói đến Đức Phật nào, nếu nói đến biến hóa với chúng ta không hiểu đấy là biến hóa mà không giải mã biến hóa thì thành ra mê tín. Bây giờ cứ lúc nào cũng bảo là Phật đi bảy bước tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, cả thiên hạ đều nói như thế đều tung hô như thế.
Bây giờ giả sử có người đặt vấn đề, Đức Phật đã đi được, đã nói được, tại sao lại cần phải mẹ nuôi, sinh ra thành thành Phật rồi, việc gì mà còn phải mấy chục năm ở trong đời nuôi lớn lên rồi này khác các thứ, chúng ta không giải thích được. Rồi bảo tại sao phải đi bảy bước tại sao không đi tám bước; Tại sao lại phải chín con rồng mà không phải là mười. Chỗ này phải giải mã được những biểu tượng này, nếu không giải mã được chúng ta đi vào ngõ cụt, do niềm tin tôn giáo cho nên bất kể nói thế nào để chúng ta đều tin hết, tin mà không biết là cái đó nó nguồn gốc từ đâu mà ý nghĩa của nó thế nào cả. Nó mặc dù là biểu tượng tôn giáo nhưng sẽ phải hiểu, thì học lịch sử Đức Phật là phải nghiên cứu trên 3 phương diện này thì mới có thể hiểu rõ về đức tin Phật.



