LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (TỪ ĐẢN SINH ĐẾN THÀNH ĐẠO)

LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

(từ Giáng sanh đến Thành đạo)

Phần 01

Kinh văn:

A. MỞ ĐỀ:  

Ðời đức Phật Thích-Ca là một tấm gương sáng

Bất luận một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.

Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tánh hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm thúy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta.

Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sinh xuống cõi Ta-bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.

Giảng giải chi tiết:

Kính thưa đại chúng, phần mở đề giới thiệu Đức Phật là tấm gương sáng cho chúng sinh và nhân loại. Bất kể một người theo một tôn giáo nào thì chúng ta đều lấy đức giáo chủ của tôn giáo ấy là biểu tượng và làm thần tượng cao tột bậc, mà sự cao quý của Đức Phật được cả nhân loại thừa nhận. Vì thế Liên hợp quốc lấy ngày đản sinh của Đức Phật để làm ngày đại diện cho tôn giáo của nhân loại. Chính vì thế mà chúng ta tổ chức lễ Vesak, đấy chính là do Liên hợp quốc đề xướng. Trong hơn 1000 tôn giáo hiện có mặt trên thế gian thì chỉ duy nhất có Phật giáo được lựa chọn là tôn giáo đại biểu, và cuộc đời của Đức Phật được Đức Phật chia sẻ và giải thích rõ trong tất cả các hệ thống kinh điển, Đức Phật không che giấu bất kể một vấn đề gì liên quan đến cuộc đời ngài cả. Cho nên ngài mới nói một điều: ta thuyết pháp bàn tay mở ra, cuộc đời của Đức Phật không có gì bí mật. Điều thứ ba và Đức Phật khẳng định: Những điều gì ta làm được ta mới nói ra, những điều gì ta nói ra là ta đã làm được. Tức là những gì mà Đức Phật đã giảng, đã nói thì tất cả những điều đó Đức Phật đều làm được, và những cái gì mà Đức Phật đã làm được thì Đức Phật mới nói. Như thế, chúng ta khẳng định rằng tất cả kinh điển mà Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta đều là những điều mà Đức Phật đã thực chứng, chứ không phải là những điều ước đoán, hoặc là quan điểm hay suy luận. Hiện nay, nhiều người khi giảng Phật pháp, kể cả người xuất gia hoặc người tại gia hoặc những người nghiên cứu thì thường hay dùng từ như quan điểm của Đức Phật, hay chủ trương của đạo Phật. Thực ra đạo Phật không có chủ trương và Đức Phật không có quan điểm. Quan điểm, chủ trương là cái người ta chưa thực hiện được và người ta chưa biết nó là cái gì. Cho nên người ta mới xây dựng chủ trương, chủ trương là cái mà người ta chuẩn bị thực hiện. Quan điểm là ý kiến cá nhân của một người nào đó hoặc của một tổ chức nào đó, thì cái đó mới gọi là quan điểm, cái đó mới gọi là chủ trương. Ví dụ như là ngày nay chúng ta gọi là chủ trương của Đảng, Nhà nước về một vấn đề gì đó, tức là vấn đề đó chưa thực hiện. Hoặc là quan điểm của một người nào đó hoặc quan điểm của một nhóm người nào đó hoặc quan điểm của xã hội nào đó, thì đấy là điều mà người ta đang hướng tới, đấy mới là chủ trương và đấy mới là quan điểm, còn Đức Phật nói cái gì mà ta nói giá là ta đã làm rồi và điều đó Đức Phật đã thật chứng rồi, và cái đó không còn là quan điểm nữa, không còn là chủ trương nữa. Cho nên Đạo Phật, chúng ta phải hiểu rõ là không có chủ trương. Cho nên là ngay thời Đức Phật người ta có hỏi Sa Môn Cù Đàm có chủ trương gì? Đức Phật nói ta không có chủ trương, bởi vì những gì mà ta nói ra là những điều ta đã chứng nghiêm, tức là cái đó là sự thật. Và cái đó là chân lý chứ không phải chủ trương bởi chủ trương thì chưa hẳn là chân lý. Quan điểm thì nó có quan điểm cá nhân, có quan điểm tập thể và quan điểm vẫn có sai nhưng lý thì không sai. Đây là điểm thứ 3 mà chúng ta gọi là sự khác biệt so với các tôn giáo khác là chỗ này, và điều quan trọng hơn nữa là chúng ta thấy được cuộc đời Đức Phật, thì Ngài nói hay im lặng thì tất cả đều là bài pháp, đều là những điều chỉ dạy cho hết cả chúng sinh. Chính về những cái điều đó, tất cả những bài pháp mà Đức Phật đã giảng dạy cho chúng ta đều liên quan đến cuộc đời của chính ngài, không những trồng tiếp hiện tại mà còn vô lượng kiếp quá khứ. Cho nên là chúng ta học, muốn học giáo lý của Đức Phật, trước hết phải hiểu về cuộc đời của Đức Phật.Và như những bài đầu chúng tôi nói là hiện nay trong hệ thống kinh điển và giáo lý của Phật giáo thì chúng ta đang tiếp cận với ba Đức Phật, một Đức Phật lịch sử, hai là Đức Phật tôn giáo và ba là Đức Phật lý tưởng. Nhưng trong bài này chúng ta nói về lược sử, tức là nói về Đức Phật lịch sử, tức là đề cập đến đến con người lịch sử. Xưa nay người ta cho rằng Đức Phật là một vị thần thánh hóa nào đó hoặc là nhân vật không có thật. Nhưng mà thế giới người ta đã kiểm chứng bằng tất cả những sự thật lịch sử và xác nhận Đức Phật là con người lịch sử, có cha, có mẹ, có sinh ra, có cuộc đời và tất cả những gì đều là sự thật. Và Đức Phật cũng là một chúng sinh như tất cả các chúng sinh, nhân loại. Nhưng Đức Phật vượt lên cái sự thấp hèn, vượt lên những sự cám dỗ, vượt lên những sự khổ đau để trở thành bậc vô thượng, chính đẳng, chính giác. Trong Kinh nói có một chúng sinh duy nhất, một con người duy nhất xuất hiện trên đời vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc an lạc cho Chư Thiên và loài người. Đó chính là đức Thế Tôn của chúng ta, bậc chính đẳng chính giác, Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chúng ta sang phần B là nội dung chính, Định nghĩa hai chữ Giáng sinh.

Kinh văn:

B. CHÁNH ĐỀ   

I. ÐỊNH NGHĨA HAI CHỮ GIÁNG SINH  

Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích-Ca trong cõi đời này, người ta thường dùng chữ đản sinh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn cho cõi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sinh (nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sinh ra).

Ba chữ ấy đều có 3 ý nghĩa khác nhau: Chữ đản sinh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ý Phật bao giờ cũng có cả, nhưng vì mắt người không thấy được, phải hiện rõ ràng ra mới thấy; chữ giáng sinh hàm cái ý đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời thì gọi là “đầu thai”. Ðầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. Còn giáng sinh hay thị hiện thì không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi lòng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sinh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sinh; xong xuôi thì thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết.

Trước hết định nghĩa về sự xuất hiện của Đức Phật thì sự xuất hiện của Đức Phật trong sách thường dùng có ba cái thuật ngữ. 

Thứ nhất là đản sinh, đản ở đây là sự xuất hiện màu nhiệm, đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại. Cho nên phần lớn xưa nay chúng ta thường dùng chữ Phật Đản. Chữ Đản này còn có ý nghĩa là sự xuất hiện theo hạnh nguyện hay là đại nguyện, để chỉ cho sự khác biệt của chúng sinh. Chúng sinh chúng ta ra đời là do nghiệp dẫn dắt và chúng ta không chủ động được trong sự ra đời của mình.

Bản thân chúng ta là sinh vào nhà ai, chúng ta không chọn được cha mẹ, và bản thân cha mẹ cũng không lựa chọn chúng ta, và tất cả mọi sự ra đời của chúng ta đều là do nghiệp dẫn dắt, cái đó thuộc về nghiệp lực. Còn Chư Phật Bồ Tát ra đời do hạnh nguyện. Do đó các Ngài phát nguyện đến thế gian này để hóa độ chúng sinh, bản thân các ngài đã tu hành, đã vượt ra khỏi sinh tử luân hồi, nhưng vì lòng thương tưởng, vì nguyện đại bi cứu khổ cho nên chư Phật phát nguyện trở lại cuộc đời này, mang cái hình vóc mang hình dáng giống như chúng sinh giống như loài người, để mà thực hiện cái hạnh nguyện cứu khổ độ sinh. Vì thế gọi là Đản sinh. Đản là sự xuất hiện theo ý muốn, còn chúng ta là không theo ý muốn. Chúng ta được sinh ra thế nào, không thuộc phụ thuộc vào ý muốn của chúng ta, cũng không phụ thuộc vào ý muốn của cha mẹ chúng ta. Ngày nay, mặc dù là khoa học, người ta có thể dùng các biện pháp này, biện pháp kia để lựa chọn được giới tính, nhưng người ta không lựa chọn được tính nết của người sinh ra. Người ta cũng không lựa chọn được đạo đức của người sinh ra, người ta không lựa chọn được vị trí tuệ của người sinh ra và cái đó nó phụ thuộc vào nghiệp lực, chư Phật Bồ Tát đấy thì cái này là các ngài chủ động được chuyện đó, gọi là Đản. Đản là sự xuất hiện màu nhiệm.

Thứ hai là thường dùng chữ ca ngợi Đức Phật Thích Ca- Sa Bà thị hiện, tức là sự xuất hiện, thị hiện là hãy chủ động và và hiện ra. Chữ thị hiện cũng gần giống với cái nghĩa là Đản sinh.

Từ thứ ba mà dùng chữ Giáng sinh. Thực ra trong Phật giáo ít dùng từ Giáng sinh bởi vì từ Giáng sinh này sẽ nhầm lẫn với cái từ Giáng sinh của Thiên chúa giáo. Giáng là từ trên cao rơi xuống thấp và cho rằng cái người mà đang ở địa vị cao xuống xuống địa vị thấp thì gọi là Giáng, gọi là hạ xuống. Giống như ngoài đời gọi là giáng chức, đó là giáng – hạ. Bên Công giáo người ta dùng ngày kỷ niệm của Chúa Giê Su KiTô. Người ta gọi ngày Giáng sinh. Phật giáo thì không dùng chữ Giáng sinh này, mà thường chủ yếu là dùng chữ Đản sinh thôi. Trong một số các Kinh sách thì Đức Phật không nói là mình đản sinh mà Đức Phật nói là sự thị hiện. Cũng là sự xuất hiện theo hạnh nguyện. Cũng có người cho rằng do trước khi xuất hiện ở thế gian này trở thành vị Bồ tát tu hành thành Phật, thì Đức Phật ở trên cõi trời Đâu suất Đà Thiên. Vì thế cõi trời so với thế gian của chúng ta đang ở trên. Vì thế ở trên  ngài hạ xuống thế gian này cũng gọi là Giáng sinh. Nếu hiểu theo cách ấy thì nó dễ nhầm lẫn với sự Giáng sinh của Thiên chúa giáo. Cho nên Phật giáo chúng ta ít khi dùng từ Giáng sinh này. Trong các văn bản xưa nay, sau này có một số người dùng nhưng mà ít, chúng ta phải hiểu rõ ba cái định nghĩa này. Thế nào là Đản sinh, thế nào là Thị hiện, thế nào là Giáng sinh. Ở đây chúng ta phải ghi nhận một điều là chư Phật Bồ Tát là người đã tu hành nhiều đời, nhiều kiếp và các ngài đã vượt qua sinh tử luân hồi và không còn bị cái dòng nghiệp lực của sinh tử luân hồi nó chi phối nữa. Do đó các ngài có thể tự tại trong việc sinh tử, tức là muốn xuất hiện nữa đâu ấy thì xuất hiện được ở đó. Muốn tới thế gian nào cứu độ thì xuất hiện ở thế gian đó, nhưng vì muốn xuất hiện ở các thời gian đó thì chư Phật Bồ Tát phải mang hình dáng của người, hoặc là chúng sinh cõi thế gian này. Ví dụ như chư Phật muốn xuất hiện ở cõi Trời thì Ngài cũng phải mang thân tướng của Người cõi trời. Chư Phật mà muốn xuất hiện để nhân loại thì phải mang hình tướng của nhân loại. Mà chư Phật muốn muốn vào trong Lục đạo luân hồi thì chư Phật phải hiện thân bằng hình tướng của Lục đạo, như thế mới có thể hóa độ chúng sinh được và sự xuất hiện ấy không phải là do nghiệp lực chi phối, mà hoàn toàn là do hạnh nguyện, khác nhau là ở chỗ này.

Sang phần 2 nói về hoàn cảnh và dòng dõi của Đức Phật.

Kinh văn:

II. HOÀN CẢNH VÀ DÒNG DÕI CỦA ĐỨC THÍCH-CA  

Ðức Phật giáng sinh ở xứ Trung Ấn Ðộ, bây giờ là nước Népal, một nước ở ven sườn dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, là một dãy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị vì là Tịnh-Phạn, một vị vua thuộc dòng Thích-Ca, là một dòng họ lớn đã mấy mươi đời nối nghiệp trị vì đất nước này. Bà hoàng hậu Ma-Da, cũng là một người thuộc dòng vua chúa đã lâu đời. Cả hai ông bà vua Tịnh-Phạn đều là người đã nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.

Một hôm, trong thành Ca-tỳ-la-vệ, là kinh đô của vua Tịnh-Phạn, có lễ vía Tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng hậu Ma-Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh-Phạn nghe. Vua ra lịnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng: “Hoàng hậu sẽ sinh một quý tử tài đức song toàn”. Vua Tịnh-Phạn rất mừng rỡ, vì ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối.

Ðến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại vườn Lâm-tỳ-ni, cách thành Ca-tỳ-la-vệ 15 cây số, hoàng hậu Ma-Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa vô ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải vói hái, thì thái tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy.

Ngày đản sinh thái tử, trong thành Ca-tỳ-la-vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; sông, ngòi, mương, giếng nước đều trong đầy; trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương.

Vua Tịnh-Phạn vui mừng khôn xiết mời các vị tiên tri đến xem tướng thái tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A-tư-đà tu ở núi Hy Mã Lạp Sơn, tiên đoán rằng: Thái tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị thánh. Nhưng vua Tịnh-Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh-Phạn vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho thái tử là Tất-Ðạt-Ða (Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: “Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ”. Chức vị mà Tịnh-Phạn vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của con Ngài là chức vị Phật.

Hoàng hậu Ma-Da sau khi sinh thái tử được bảy ngày, vui thú quá vì thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý, và đã rửa sạch nghiệp báo nên bà trút được xác phàm và sinh về cõi trời Ðao Lợi. Vua Tịnh-Phạn giao thái tử cho em gái hoàng hậu là Ma-ha Ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng.

Giảng giải chi tiết:

Nói về hoàn cảnh và dòng dõi của Đức Phật thì trong các kinh điển Nam truyền cũng như Bắc truyền, nói về một số điểm đặc biệt như thế này. Trước khi đức Thế Tôn của chúng ta thị hiện Đản sinh xuống cõi Sa Bà thì ngài đã trải qua 3 A Tăng Kỳ Kiếp và 100 đại kiếp, tu tướng hào và trở thành một vị bồ tát nhất sinh bổ xứ ở cung trời Đâu Suất Đà Thiên, cung trời Đâu Suất Đà Thiên thuộc dục giới. Chúng ta biết rằng, cõi trời này trong thế giới quan có hai phần, một phần là Nội viện Đâu Suất, Nội viện Đâu Suất thường là nơi ở của các vị Bồ Tát nhất sinh bổ xứ, trước khi đản sinh, thị hiện xuống thế gian. Hiện tại là Bồ Tát Di Lặc đang ở Đâu Suất Viện này, Đâu Suất Ngoại Viện là nơi của Chư Thiên. Các vị Bồ tát nhất sinh bổ xứ thường ở trên đó giáo hóa Chư Thiên, chờ cho đến thời điểm đản sinh chín muồi thì các ngài lúc bấy giờ mới thị hiện xuống nhân gian. Cũng giống như vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni của chúng ta trước khi xuất hiện trên cõi đời, ngài là một vị bồ tát nhất sinh bổ xứ ở cõi trời Đâu Suất và có tên là Bồ tát Hộ Minh, Hộ Minh nghĩa là bảo vệ chân lý, bảo vệ ánh sáng. Minh là ánh sáng, là chân lý, hộ là bảo vệ, giữ gìn, bậc giữ gìn chân lý. Thế thì khi ấy tuổi thọ và thời gian cư ngụ trên cung trời đâu suất cũng đã chuẩn bị chấm dứt. Bấy giờ, chư Thiên có thông báo cho Bồ Tát rằng là đã chuẩn bị đến thời gian ngài thị hiện xuống thế gian để thực hiện việc cứu độ nhân loại. Do hạnh nguyện tu của ngài từ vô lượng kiếp và ngài phát nguyện thành một vị Phật ở cõi ngũ trược ác, chữ ngũ trược ác chúng ta dịch là Sa Bà, tức là cõi Sa Bà gọi là uế độ, thế giới của khổ đau, nó có đầy đủ 5 thứ mà trong kinh gọi là ô trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mệnh trược. Thời kỳ Đức Phật xuất hiện nằm trong thời kì phạm vi kiếp giảm, tức là tuổi thọ của chúng sinh ở trên nhân loại xuất hiện, khi Đức Phật ấy xuất hiện nó đang nằm trong trong thời kỳ giảm xuống và tuổi thọ bình quân lúc bấy giờ là tám mươi tuổi. Khi được chư thiên chỉ dẫn như vậy, thưa bẩm như vậy, trình bày như vậy, bồ tát của chúng ta quan sát xuống nhân gian- thế giới Sa bà này, chọn đến quốc độ nào. Chúng ta biết rằng đương thời cách đây 2 nghìn, 6 trăm năm về trước thì Địa Cầu gọi là tiểu thế giới, nó có ba trung tâm văn hóa, một là Ấn Độ, hai là Trung Quốc và ba là Ai Cập. Ba trung tâm này gọi là ba trung tâm văn minh của nhân loại. Tại sao Đức Phật lại phải chọn vào những nước gọi là trung tâm văn minh của nhân loại? Chúng ta biết rằng nếu mà không phải là trung tâm văn minh và hiểu biết một cách rộng rãi thì dù Đức Phật có ra đời, có giảng kinh thuyết pháp người ta sẽ không tiếp nhận được. Chúng ta cách Đức Phật hai nghìn sáu trăm năm rồi, người bây giờ gọi là thông minh khôn ngoan và có đầy đủ phương tiện rồi, nhưng chúng ta nghe kinh Phật đọc kinh Phật vẫn hoàn toàn không hiểu. Chúng ta thử tưởng tượng rằng làm sao mà 2600 năm trước mà Đức Phật nói người ta hiểu ngay được. Thế thì rõ ràng là người ta phải thông minh hơn chúng ta. Do đó, ngài phải chọn vào trung tâm. Trong các trung tâm ấy thì chúng ta biết rồi, về mặt lịch sử thì đương thời với thời kỳ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì Trung Quốc cũng là một trung tâm văn minh và khi đó đã có hai vị thánh nhân đã xuất hiện ở Trung Quốc rồi, đó là Khổng Tử và Lão Tử. Ở khu vực mà Trung Đông, là Ai Cập, nơi khác cũng có các vị thánh nhân xuất hiện ở đó rồi, các nhà triết học cổ đại..  Và trong ba cái trung tâm ấy thì nơi chư Phật thường xuất hiện, đấy chính là Ấn Độ. Và Ấn Độ mới được gọi là trung tâm của vũ trụ và Đức Phật quyết định là thị hiện đản sinh ở Ấn Độ. Đây là quyết định thứ Nhất. Quyết định thứ hai trong cõi Ấn Độ, có rất nhiều các cái đất nước khác nhau, như bài trước đã nói là Ấn Độ là nó là một hợp chủng quốc và trong cái cái đất nước nó thì Đức Phật chọn sinh vào nước nào, thì ngài chọn Ca Tỳ La Vệ. Thực ra Ca Tỳ La Vệ không phải một nước lớn, nhưng ở đó con người thuần túy, con người có đạo đức. Đấy chính là cái điểm mà Đức Phật lựa chọn, bởi vì phải chọn vào những nơi có đạo đức và có văn hóa. Sự lựa chọn thứ ba mà Bồ Tát của chúng ta cân nhắc đấy, vậy thì đàn sinh vào tầng lớp nào? thì Ấn Độ có bốn cái tầng lớp: Bà La Môn là cái giai cấp chuyên môn giữ cái việc tế tự, người ta cho rằng sinh ra từ miệng của Phạm Thiên, cho nên họ giữ cái quyền là tối thượng trong xã hội Ấn Độ. Tầng lớp thứ hai là tầng lớp vua chúa, gọi là Sát-Đế-Lỵ, quản lý đất nước mà cái cái tầng lớp này thì thông minh, dũng lược, tài trí và họ có địa vị. Cái tầng lớp thứ ba là tầng lớp của những người gọi là buôn bán thợ thủ công. Đấy là những người kinh doanh buôn bán, bây giờ họ có nguồn lực, có tài chính và họ hoạt bát. Tầng lớp thứ 4 chúng ta biết rằng là Thủ đà la, tức là tầng lớp cuối cùng là dân lô lệ làm thuê và hạ tiện.
Thế thì Đức Phật cân nhắc rằng, trong bốn giai cấp ở Ấn Độ, tầng lớp nghèo khổ là tầng lớp đông nhất và bất kể xã hội nào- tầng lớp nghèo khổ là tầng lớp đông. Nhưng Đức Phật không không lựa chọn tầng lớp này. Ở trên đây tôi nói là đa số các giáo chủ của tôn giáo khác thì lựa chọn tầng lớp đông nhất để xuất thân, Đức Phật thì của chúng ta không làm cái việc đó. Ngài nghĩ rằng nếu ngài xuất thân trong tầng lớp Bà La Môn, thì dù ngài có tu hành chứng đắc đạo, thì người ta vẫn cho ngài chỉ là một vị thần của Bà La Môn mà thôi. Cho nên ngày nay Ấn Độ giáo, nếu ai đã đã sang các đền thờ Ấn Độ, người ta cũng có thể tôn tưởng của Đức Phật và người ta cho rằng Đức Phật là một vị thần của họ, không khác gì cả. Ấn Độ giáo bây giờ vẫn còn tồn tại và có những đền thờ của Ấn Độ giáo, người ta cũng thờ hình tượng của Đức Phật và người ta xếp Đức Phật là một vị thần của họ mà thôi. Không chọn các tầng lớp dưới là có lý do và cuối cùng Đức Phật chọn tầng lớp là vua chúa có lý do như sau. Một, tầng lớp ấy có địa vị, tầng lớp ấy có quyền lực, tầng lớp ấy có tài sản và tầng lớp ấy có uy tín và tiếng nói. Khi ngài có thị hiện vào đó, để khi mà ngài thị hiện việc gọi là xả tục xuất gia thì mới có cái để mà bỏ. Nếu mà tầng lớp nghèo hèn mà đi tu người ta cho rằng là khổ quá mà đi tu, không có gì để bỏ cả. Anh có không có sự nghiệp, không có tài sản, nhiều người bây giờ người ta vẫn có quan niệm cho rằng những người đi tu là những người do khổ quá mà đi tu. Đức Phật muốn khẳng định với thời gian đấy, ngài có những thứ cao nhất trong thế gian đó là quyền lực, đó là tài sản đó là vinh dự, đó là vinh hoa phú quý. Nhưng ngài phải từ bỏ nó, để còn một điều chứng minh khác nữa rằng, là những cái mà tất cả người đời đang tìm kiếm quyền lực, ai cũng muốn có, một đất nước là cao nhất là ông vua. Ví dụ như là nước ta có 100 triệu dân mà chỉ có mỗi người lại làm lãnh đạo cao nhất và ai cũng muốn có được địa vị đó. Nhưng mà Đức Phật thì cho rằng, ta bỏ ngai vàng giống như bỏ đi đôi giày rách, bời vì dù có phú quý đến đâu, có quyền lực đến đâu, có sung sướng đến đâu, cái đó không giải quyết được sinh tử luân hồi, cái đó không giải quyết cái khổ đau cho bản thân mình, cũng không giải quyết được khổ đau cho nhân loại. Cho nên nó chỉ là đồ bỏ đi thôi. Đức Phật nói ta bỏ cái phú quý ấy, bỏ quyền lực ấy như bỏ đờm dãi. Đức Phật ví thứ mà cả nhân loại chúng ta đang tìm kiếm – hạnh phúc bằng quyền lực, hạnh phúc bằng tài sản, hạnh phúc bằng phú quý giàu sang, thì Đức Phật coi đó là đôi giày rách bỏ đi và Đức Phật coi đó là đờm dãi đáng phải nhổ ra. Đều có khẳng định một điều rằng, ngôi vua cao quý thật nhưng không quý bằng ngôi Phật. Ngôi vua có quý thật nhưng không quý bằng đạo giải thoát, vì thế mới cần phải từ bỏ. Còn nếu mà ở cái tầng lớp thấp kém mà đi tu để tìm cầu giải thoát, người ta cho rằng là trốn cái khổ nghèo khổ của thế gian, để trở thành một vị tu sĩ được mọi người gì tôn trọng và cung phụng, và đấy chính là quan điểm sai lầm của thế gian. Chính vì vậy, đức thế tôn của chúng ta trước khi thị hiện đời này đã phải cân nhắc điều đó và cuối cùng ngài quyết định là phải chọn vào tầng lớp đế vương. Ngay phần mở đầu đã thấy điều đặc biệt của Đức Phật, các tôn giáo khác thì không bao giờ có chuyện này, Cuối cùng, Đức Phật quyết định là chọn vua Tịnh Phạn Vương làm thân phụ và Hoàng hậu Ma Da làm thân mẫu. Chúng ta biết thời điểm này thì vua Tịnh Phạn chưa từng có một người con nào, và lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn đã khoảng độ năm mươi tuổi và Hoàng hậu Ma Da đã là bốn mươi lăm tuổi.Tại sao Đức Thế Tôn không không đản sinh sớm hơn trong khi nhà vua còn trẻ hơn, thì có lý do thế này. Đức Phật chọn tuổi thọ của thân mẫu chỉ còn có 10 tháng 7 ngày ngài mới quyết định đầu thai, mới quyết định thị hiện. Chính vì vậy, mới dẫn đến là ngài trong thai mười tháng và sinh ra được bảy ngày thì thân mẫu lìa đời. Do đó cái thời điểm như trong kinh nói, khi ấy ta chọn vào mấy điểm thân mẫu của ta tuổi thọ chỉ còn có 10 tháng 7 ngày. Và đây là một lý do tại sao nói là không chọn sớm hơn, trong kinh có giải thích rằng nếu mà Đức Thế Tôn mà chọn thời điểm sớm hơn, ví dụ như khi Hoàng hậu mới ngoài 20 tuổi, thì khi Đức Thế Tôn xuất gia học đạo thì thân mẫu vẫn còn. Thứ khó dứt bỏ hơn cả chính là người mẹ, người cha chỉ còn có lý trí nhưng người mẹ là sự ràng buộc đối với con hết sức khó bỏ. Cái đó là một trong những trở ngại. Thứ hai nữa là thường pháp của chư Phật, thì những người mẹ mang thai của Bồ Tát và sau này trở thành vị Phật, thì do phúc đức rất là lớn. Do đó tuổi thọ của họ lập tức sau khi sinh xong là sinh lên cõi trời để hưởng phúc mà không hưởng thụ ở nhân gian. Thứ nữa là liên quan đến đến việc thành đạo và xuất gia, liên quan đến sự trở ngại. Cho nên Đức Phật mới chọn, nói rằng ta chọn vào thời điểm khi tuổi thọ của thân mẫu của ta chỉ còn có 10 tháng 7 ngày. Và khi xem xét tất cả các điều kiện như trên, thì lúc bấy giờ là Bồ Tát của chúng ta mới quyết định thị hiện, vào thời điểm bấy giờ Hoàng hậu đã yên giấc sau một ngày có lễ hội và thực hiện bố thí cho nên rất hoan hỉ. Bấy giờ thì Hoàng hậu mơ thấy một con voi trắng cưỡi đám mây 5 sắc từ trên hư không xuống, rồi con voi đó đi vòng quanh bên hữu, giường nằm của Hoàng hậu 3 vòng rồi húc nhẹ vào hông bên phải và lập tức là con voi biến mất. Con voi trắng sáu ngà, vòi của nó có cuộn một bông sen trắng.  Giấc mộng này được Hoàng hậu ở thưa với Nhà vua sau đó, và mọi người đều cho rằng đấy là một điềm lành. Cho nên quan điểm của Ấn Độ khi Đức Phật chưa ra đời, thì ngay bản thân đương thời bấy giờ thì người ta cho rằng voi trắng là một con vật quý, con vật quý biểu thị cho sự cát tường. Cho nên bây giờ nếu mà chúng ta mà sang các nước Phật giáo nam truyền, mà những nơi mà người ta có con voi trắng là người ta nuôi dưỡng rất cẩn thận và cho mọi người đến được chiêm ngưỡng. Con voi là biểu thị cho sự xuất hiện, và đó là một điềm lành. Còn đối với Phật pháp thì chúng ta biết rằng voi là một con vật rất lớn, có sức mạnh và có nghị lực và biểu thị cho cái đại hạnh nguyện. Vì thế Bồ tát Văn Thù của chúng ta cưỡi con voi này mang tính biểu tượng. Tại sao lại là voi sáu ngà? Sáu ngà là biểu thị cho lục độ vạn hạnh. Con voi là biểu thị cho Bồ Tát hạnh, cho hạnh nguyện. Nó có sức mạnh nên gọi là đại hùng. Nó có thể hàng phục được các cả các loài thú dữ, kể cả là hổ báo gọi là Đại Lực, nhưng mà nó rất là hiền lành nên gọi là Đại từ đại bi. Nó là con vật mà ăn cỏ chứ không phải là con vật ăn thịt trong rừng. Cho nên con voi có biểu thị được bốn đức- đại hung, đại lực, đại từ, đại bi. Vì thế nó biểu thị được bốn cái đức của Đức Phật, nên Đức Phật được ca ngợi là gì? Đại hung, đại lực, đại từ, đại bi, hùng lực để chiến thắng chính mình, để chiến thắng ma quân, để chiến thắng được tà ma ngoại đạo, nhưng mà dùng sức từ bi cứu khổ độ sinh, cho nên không có sức đại hung, đại lực này thì không thể xuất gia được, và không thể tu khổ hạnh được, không thể đắc đạo được. Cho nên muốn thành tựu được phải có đại hùng đại lực, nhưng mà muốn cứu khổ chúng sinh được thì phải có đại từ, đại bi, và phải tu tập lục độ vạn hạnh của Bồ Tát một cách trọn vẹn, cho nên biểu thị sáu ngà, vòi của nó là cuộn một cái bông sen trắng. Ta biết rằng tại Ấn Độ, người ta lấy Sen trắng làm quốc hoa, biểu thị sự tinh khiết vô nhiễm, và đó cũng chính là biểu tượng của Phật pháp. Chính vì cái cái giấc mơ đó nó mang lại một điềm lành và khẳng định rằng sẽ có một vị thái tử xuất chúng, dự đoán như vậy ra đời. Và Đức Phật có nói rằng người khác thì trong thai là trong vòng là chín tháng mười ngày, nhưng bà mang thai là tròn 10 tháng. Đức Phật trong thai khác với người thường là 10 tháng. Trong thời kỳ mang thai, trong kinh nói là thân mẫu của Đức Phật xuất hiện những điều đặc biệt, đó là dường như Hoàng hậu có thể nhìn thấy được cái thai trong bụng mình, nhìn thấy được thái tử là Đức Phật của chúng ta sau này trong thai, trong kinh mô tả giống như nằm trong nhà kính, xung quanh là Lưu Ly và thân thể trong suốt trong sạch, không bị các cái thứ nhơ bẩn ở trong trông thân của người phụ nữ dính vào làm bẩn. Thứ hai nữa là- khi ngài đã vào trong thai mẹ thì luôn luôn có bốn vị tứ thiên vương thường đi theo hộ vệ xung quanh. Ba nữa là do uy lực của Bồ Tát, cho nên là thân mẫu của ngài khởi từ tâm và khi có người khổ đau, hoặc như khi có những người bệnh tật, bà chỉ cần đến gần an ủi, hoặc là có người bị bệnh khổ, chỉ cần dùng cái tay của bà mà xoa và vỗ về trên thân thể người đó, khiến cho người đó có thể khỏi bệnh. Và một điều nữa là nói rằng, trong suốt thời gian mang thai như vậy, uy lực của của Bồ Tát khiến cho bà mẹ không bao giờ khởi tham, sân, si, không bao giờ khởi dục tưởng đến bất kể một người đàn ông hay người khác phái nào cả trong thời kỳ mang thai. Đây là những cái điều mà đặc biệt nói trong kinh, bởi vì sự việc đó, liên quan đến sự ra đời của Đức Phật và nó khác hẳn những cái sự ra đời một cách bình thường. Cái này thì được Đức Phật nói trong kinh, mà ngài A Nan cũng đã từng khẳng định đấy chính là vị tằng hữu, là những điều hy hữu hiếm có so với những chung sinh khác. Khi Đức Phật ra đời thì chúng ta đều biết là ngài ra đời Vườn Lâm Tỳ Ni. Theo truyền thống của Ấn Độ, khi người phụ nữ mà mang thai chuẩn bị sinh nở thì đều phải trở về quê hương của mình để sinh con. Sau khi sinh con xong thì người ta mới đón trở về gia đình. Tập tục của Ấn Độ là, khi bắt đầu lấy chồng thì có lễ cưới thứ nhất, nhưng người phụ nữ được cưới chính thức khi có con, cho nên khi chuẩn bị có con là phải trở về quê hương một lần nữa và phải sinh khi mẹ tròn con vuông ấy thì người ta mới đón người đó trở thành dâu con chính thức. Còn nếu không là người ta có quyền bỏ. Nhưng mà có con thì không bỏ được. Đấy là tập tục của Ấn Độ vì thế là Hoàng hậu Ma Da cũng thực hiện theo tập tục này. Hoàng hậu là con của vua nước láng giềng, chúng ta biết rằng- vua Tịnh Phạn  có lấy hai chị em của Hoàng hậu Ma Da, và người em của Hoàng hậu là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, sau này là trở thành di mẫu của Đức Phật, nhưng thực ra là vua cha cùng cưới cả hai chị em. Khi đến vườn Lâm Tỳ Ni là sự tiếp giáp giữa quê hương của bến nội và bên ngoại, có một vườn thượng uyển và Hoàng hậu đã nghỉ đêm ở đó sau một đêm đi đường, vào sáng hôm sau thì bà trở dậy đi dạo trong vườn vào lúc sáng sớm. Khi đó thì Hoàng hậu chuyển dạ và sinh. Theo Phật giáo thì chúng ta gọi là nó mang màu sắc tôn giáo. Phật giáo Đại thừa thường nói rằng là khi đó thì Hoàng hậu nhìn thấy bông hoa ưu đàm nở rồi giơ tay phải vín cành hoa để hái, sau đó là trái đất chấn động, và bấy giờ thái tử xuất hiện, trên trời thì có chín con rồng xuất hiện để phun nước tắm rửa. Thế rồi cảnh trí rất là mầu nhiệm. Rồi Đức thế tôn của chúng ta đặt chân xuống dưới đất, ngoảnh mặt về hướng Bắc, đi 7 bước. Tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ đất, nói câu tuyên ngôn ngữ là: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.
Đây là cái ghi chép trong Phật sử, nhưng trong kinh Phật thì chúng tôi không thấy mô tả cái chuyện này. Đức Phật chỉ nói rằng là như những người bình thường khác, sinh ra bằng cách hoặc bà mẹ sinh khi nằm hoặc bà mẹ sinh khi ngồi còn ta ra đời khi mẹ ta đứng. Ngài chỉ có nói vậy thôi và khi ngài được sinh ra thì ngài được sinh ra trên tấm vải trắng, có bốn người cầm bốn góc để đỡ lấy tấm vải và do thân của ngài rất là sạch sẽ, cho nên hầu như không có dính máu huyết gì cả.Và sau đó ở bên cạnh cái vườn đó, có một cái hồ và có hai cái dòng nước nó chảy vào đó, một dòng nước ấm vào dòng nước lạnh và Hoàng hậu đã tắm rửa tại cái hồ đó mà cũng dùng nước hồ đó để tắm rửa cho thái tử. Hiện nay di tích ở Nepal thì cái hồ mà Đức Phật tắm và Hoàng hậu tắm vẫn còn. Đó là không có chuyện mà chúng ta nói là có chín rồng phun nước. Chín rồng phun nước là cách nói của sau này những nhà biên tập kinh điển theo quan điểm gọi là thần tượng hóa Đức Phật mà thôi, chứ còn lời mà gọi là Phật ngôn, tuyên ngôn trong kinh điển hầu như cũng ít đề cập đến, sau này là do chư tổ kết tập. Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, nhiều người thường hay bàn luận về câu câu nói này, cho rằng là Phật giáo nói là vô ngã, tại sao lại có chữ Duy Ngã, thực ra thì trong kinh điển của Phật thì cái chữ ngã này vẫn được sử dụng bởi vì nó thuộc về ngôn ngữ để chỉ bản thân mình. Nếu không dùng cái ngôn ngữ ấy thì không thể biểu thị được cái gì cả. Cho nên là mượn cái ngôn ngữ để biểu thị thôi, chứ không nói rằng cái ngã ấy là duy ngã, thuộc về chấp ngã. Còn chữ Độc tôn trong Phật pháp thì phải hiểu thế này. Trong kinh Đức Phật giải thích cái chữ Độc tôn, Phật là độc tôn, độc tôn có một cái nghĩa duy nhất là – Quả vị Phật là cao nhất và không có quả vị nào cao hơn, trong tất cả các thánh quả tu chứng, chúng ta từ La Hán, Bồ Tát thì Phật là thánh quả cao nhất, cho nên gọi là vô thượng chính đẳng chính giác. Đấy chính là độc tôn. Nghĩa Độc tôn thứ hai mà Đức Phật giải thích trong Kinh là trên thế gian này, trong Tam Thiên đại thiên thế giới trong cùng một thời điểm, trong cùng một thời kỳ giáo pháp thì không bao giờ có hai Đức Phật xuất hiện, cái đó chính là độc tôn. Đức Phật xuất hiện là duy nhất. Ví dụ như trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện đang còn, thì không bao giờ có một Đức Phật thứ hai xuất hiện được cả. Cho nên thời kỳ, mà có người ta cứ đồn đại rằng là hết thời kỳ của Đức Phật Thích Ca rồi, đến thời kỳ Đức Phật Di Lặc chẳng hạn thì cái đó không bao giờ xảy ra, đến bao giờ mà giáo pháp diệt tận đấy, không còn ai biết Phật pháp nữa là gì nữa thì lúc bấy giờ mới có Đức Phật khác xuất hiện. Tại sao lại không có hai Đức Phật cùng xuất hiện? Chúng ta nên biết rằng, giáo pháp của chư Phật là giống nhau, không có khác, cho nên khi giáo pháp của Đức Phật vẫn còn thì không cần có lý do gì để có một Đức Phật khác xuất hiện.
Vì thế tương lai là phải có 567 triệu năm nữa mới đến đến thời kỳ của Đức Phật Di Lặc ra đời, và khi đó thì chính pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thời kỳ mạt pháp cuối cùng cũng đã diệt hết rồi và trên thế gian này tất cả chùa, tháp, chùa chiền kinh điển không còn ở trên thế gian này nữa, và ngay một chữ Phật không ai từng nghe thấy nữa thì lúc bấy giờ mới là thời kỳ mạt pháp cuối cùng, tức là Phật pháp diệt hết đấy. Cho nhiều người bây giờ bảo là chúng ta phải cố gắng lưu giữ tất cả kinh điển trên hệ thống mạng, rồi điện toán đám mây này khác. Xin thưa đến lúc lúc bấy giờ nghiệp cảm không có gì giữ được cả, đến khi diệt là nó sẽ diệt hết. Bây giờ giấy tờ khác các thứ là không lưu trữ được rồi, bây giờ là lưu trữ và điện toán đám mây này mai kia lại bỏ ra khai thác, chuyện đó là cái ảo tưởng của con người thế gian chúng ta mà thôi. Tôi phải khẳng định một điều là như vậy, bởi vì đến khi Chính Pháp diệt thì tất cả đều mất hết, bởi vì lâu dần lâu dần thì cứ mất dần và Đức Phật nói rằng đến ngay cả một chữ Phật là gì người ta cũng không biết nữa.
Trong thời kỳ ấy nó kéo dài hàng hàng triệu năm, hàng trăm triệu năm. Thế gian này mù mịt trong sự tăm tối và và mê tín thì lúc bấy giờ mới cần có một Đức Phật xuất hiện để chỉ lại con đường cổ xưa của chư Phật đã đi, lúc bấy giờ Đức Phật Di Lặc mới ra đời. Thế thì Đức Phật Thích Ca của chúng ta, chữ độc tôn phải hiểu như vậy, và Đức Phật nào cũng độc thân không riêng gì Đức Phật Thích Ca. Bất kể Đức Phật nào xuất hiện cũng là Đức Phật độc tôn, tức là duy nhất trong thời kỳ ấy và không có Đức Phật thứ hai. Thứ hai nữa là gì? Quả vị Phật là quả vị cao nhất.
Còn về ngày sinh của Đức Phật, trong sách đây nói là mùng 8 tháng 4, còn bây giờ chúng ta đang kỷ niệm ngày rằm tháng tư, là có mấy lý do, điều này trong một vài bài pháp chúng tôi đã chia sẻ rồi, nhưng đây cũng nói rõ lại. Trong kinh điển chỉ ghi Đức Phật sinh vào ngày giữa tháng của tháng trăng sáng. Thế thì nếu theo lịch bây giờ ngày giữa tháng của tháng VeSak đấy, tháng 4 của chúng ta là tháng Vesak, giữa tháng là ngày rằm, nhưng mà có một cái điểm rằng là lịch cổ của Ấn Độ chỉ có 15 ngày 1 tháng thôi, và tháng trăng sáng, tức là trăng sáng dần lên thì nó có 15 ngày, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 là tháng trăng sáng. Từ ngày mười sáu cho đến ngày ba mươi của chúng ta là tháng Trăng tối. Tức là Trăng là tối dần. Cho nên trong kinh gọi là Bạch Nguyệt, gọi là trăng sáng. Hắc Nguyệt là trăng tối. Ngày giữa tháng của tháng trăng sáng là ngày mồng 8. Ngày giữa tháng của tháng trăng tối ngày hai ba, ngày mồng 8 và ngày 23, tại sao bây giờ chúng ta gọi là ngày trai nhưng thực ra nó là ngày giữa tháng. Ngày xưa giống như ngày rằm chúng ta bây giờ. Thế thì xưa kia lấy ngày mồng 8 tháng tư là không có sai, nhưng mà bây giờ là lịch Pháp bây giờ thì giữa tháng không thể là mùng 8 được. Vào giữa tháng phải là ngày rằm, cho nên là Phật giáo thế giới đã từ năm 1954 đấy, Hội Phật giáo thế giới chính thức lấy cái ngày mồng 8 tháng VeSak, tức là tương đương với tháng 5 dương lịch và nó nhằm ngày giữa tháng của tháng tư âm lịch là ngày Đức Phật đản sinh, để xác nhận một điều như vậy. Thực ra thì không riêng gì đạo Phật chúng ta đâu, kể cả người Công giáo với ngày 25 tháng Chạp, là ngày Thiên Chúa Giáng sinh, nhưng điều này cũng là sau Thiên chúa 400 năm người ta mới xác định được cái ngày đó, chứ không phải là ngày đó ta biết ngay vì trong sử sách đều không có ghi. Sau này người ta mới lấy ngày đó. Không nói gì xa hơn nữa để ngay Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta, ngài cũng không biết ngài sinh vào ngày nào cả. Và chính ngày mười chín thằng năm ấy cũng là một cái ngày mà lấy để làm ngày kỷ niệm thôi, chứ thực ra cũng đấy cũng không phải chính xác là ngày mà Chủ tịch sinh vào ngày đó, ngay trong thời kỳ bấy giờ cũng không nhớ, những người ngày xưa là sinh ra không có giấy khai sinh, bố mẹ mà không ghi là không thể nhớ được. Truyền thống của Phật giáo thì những chuyện này là hầu hết không ghi.

Đấy là một vài cái điểm liên quan đến dòng dõi và Đức Phật, sang cái phần tài năng và đức hạnh của thái tử. Ở đây thì nói về tài năng và đức hạnh của thái tử Tất đạt đa, nhưng chúng ta trong kinh gọi là Bồ tát đấy. Sở dĩ có được những cái tài năng ấy có được những cái đức hạnh ấy, không phải là chuyện ngẫu nhiên. Chúng ta biết rằng trước khi đản sinh xuống thế gian này thì tiền thân của Đức Phật chúng ta đã phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp và 100 đại kiếp tu tiếng hảo, tức là tu phúc đức đấy
Cho nên đức hạnh tài năng đều là xuất chúng hơn người, trong kinh gọi là học một biết mười, nhưng mà ngài là không học tự biết. Bởi vì chính Đức Phật đã mô tả trong kinh là khi lên năm lên 6 tuổi, 7 tuổi là vua cha, đã bắt đầu là cho ngài đi học và chọn những bậc thầy danh tiếng nhất để đến để giảng dạy cho ngài.
Bởi vì lúc bấy giờ giảng dạy bằng cái gì, giảng dạy bằng các kinh điển Vệ đà của Bà La Môn giáo. Và khi ông thầy ông chỉ đọc đầu cái đoạn sách vậy thôi thì lập tức là ngài có thể hiểu rõ toàn bộ cái sách in nói gì và những câu hỏi ngài đặt ra trong những bộ sách đó thì hầu hết tất cả những ông thầy ấy đều không ai có thể trả lời được. Chính những ông thầy ấy lại còn phải cầu Thái tử chỉ ra rằng những câu hỏi ấy lên trả lời thế nào, và thái tử đã chỉ dạy cho họ và vô hình chung, không phải họ làm thầy cho ngài được, mà họ trở trở lại tôn ngài làm thầy. Cho nên Đức Phật của chúng ta mới được tôn xưng là bậc vô sư trí, tức là trí tuệ không cần thầy, cái này không phải là sự thông minh bẩm sinh mà cái này là kết quả của sự tu tập nhiều đời nhiều kiếp, và tự nhiên hay là trí tuệ nó tự phát ra Vì là bậc bồ tát tu hành cho nên là đức hạnh là chói sáng rồi. Cho nên nói rằng là không có gì có thể kể được, như ngài A Nan nói, dẫu chúng con đó có ca ngợi tán dương đức hạnh của Phật đời này kiếp khác cũng không bao giờ hết được, chứ ở đây chỉ nói điểm qua một vài cái việc như thế. Ví dụ như là khi ngài với con nhỏ chơi với Đề Bà Đạt Đa chẳng hạn, Đề Bà Đạt Đa đã bời vì con nhà võ con nhà vua là phải học để cung kiếm đều phải thạo hết, là lúc bấy giờ Đề Bà Đạt Na là  có dùng cung tên bắn một con chim nhỏ. Con chim bồ câu ấy làm nó bị thương. Lúc bấy giờ con chim đã bay đến chỗ Thái tử, thái tử lập tức là đã mang con chim đó về rồi, thương xót nó như chính mình bị thương. Lúc bấy giờ còn nhỏ lắm, như cái cái tâm bồ tát nó xuất hiện rồi.
Ngài lập tức là sai người đi tìm thuốc rồi băng bó cho con chim đó, và nuôi dưỡng nó. Đề Bà Đạt Đa đến, nhất định đòi trả lại. Ngài có nói rằng ngài sẵn sàng lấy tính mạng của mình để đổi con chim này, ngay từ lúc còn nhỏ đã đã bộc lộ tâm đại từ đại bi của Phật Bồ Tát lớn, cho nên những cái điểm này trong kinh nói rất nhiều và không thể kể xiết được. Gọi là tài năng và đức hạnh.Vì thế cho nên chính cái này tạo nên một nền tảng sau này, khi Đức Phật nói rằng nhờ có từ địa vị mà làm đế vương, từ địa vị mà đức hạnh của ta trọn vẹn cho đến khi ta thành Phật đấy thì phàm ta nói những cái điều gì mọi người đều tin phục, bởi vì người ta có tin được hay không? người ta phải trông vào  không phải lời nói đó màu nhiệm đến cỡ nào, mà phải trông vào xem là gì, bản chất con người đó thế nào, đức hạnh của người đó thế nào, có đáng tin hay không và đáng tin hay không? Nếu bản thân một người mà từ nhỏ đức hạnh đã không tốt, hạnh kiểm đã không tốt, đạo hạnh đã không tốt, trí tuệ đã không tốt mà sau này trở thành bậc gì đi chăng nữa thì dù có nói năng gì cũng khó thuyết phục được được chúng sinh và nhân loại. Do đó, chính cái điều đó mới làm nên cái đức hạnh trọn vẹn của Đức Phật sau này và nhờ đó mới có khả năng cảm hóa và khiến cho tất cả chúng sinh đều tin phục. Đấy là nói về đến tài năng và đức hạnh của thái tử, người ta biết rằng khi thái tử ra đời, vua cha Tịnh Phạn đã mời người về  xem tướng và khi đó mọi người đều xác nhận rằng thái tử có đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Theo quan niệm truyền thống Ấn Độ thì những người có tướng tốt như vậy thì có hai khả năng xuất hiện. Một là sẽ trở thành bậc chuyển luân thánh vương, đó là người có thể cai trị toàn nhân loại, toàn thế giới bằng sức mạnh của trí tuệ, đạo đức, có thể chinh phục cả nhân loại và cai trị thế giới.
Ngày nay nhiều các nước lớn người ta cũng đều có muốn là  khống chế cả thế giới, nhưng mà không ai đủ tài đức đấy cả, tất cả những nhà nhân tướng học và những cái người mà làm lãnh đạo hiện nay, kể cả quá khứ và tương lai thì không ai có đủ ba hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, vì muốn có đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ dẹp phải bỏ ra một thời gian tu công đức ấy là 100 đại kiếp mới có thể thành tựu. Anh có thể thống trị cả thế giới, tức là anh phải tu cái gì để có thể thống trị cả thế giới đã phải từng phục vụ. Bây giờ ví dụ như thống trị cả thế giới 7 tỷ dân thì anh cũng phải phục vụ 7 tỷ người trong quá khứ anh mới có thể đứng lên ngôi vị mà để 7 tỷ người đó thuần phục anh cả. Cho nên Đức Phật, nói là phải trải qua 100 đại kiếp tu cái này mới có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Và khả năng thứ hai đó là trở thành một vị thánh nhân xuất thế, lúc bấy giờ vì chưa có Phật pháp, chưa gọi là trở thành Phật được. Người ta chỉ gọi đó là vị thánh nhân xuất thế, nhìn trong tất cả các vị Bà La Môn duy nhất có hai người dự đoán là ngài sẽ trở thành bậc thánh nhận. Người thứ nhất đó là Tiên A Tư, khi đoán  tướng cho thái tử là đã vui mừng sau đó bật khóc, Nhà vua rất lo sợ, hỏi tại sao, A Tư Đà có nói là  tôi mừng vì mừng cho nhân loại chúng sinh sẽ có một vị thánh nhân chỉ đường dẫn lối mà tôi khóc là buồn cho tôi vì tuổi thọ đã tới lúc sắp chấm dứt và không thể sống đến ngày mà vị thánh nhân ấy đắc đạo để học đạo với ngài được. Một người thứ hai là vị trẻ nhất trong số những người đó chính là sau này trở thành đệ tử đầu tiên của Đức Phật, đó là ngài Kiều Trần. Ngài Kiều Trần Như là vị tướng sư trẻ nhất lúc bấy giờ, cũng đoán một điều khẳng định rằng là tương lai là thái tử Tất Đạt Đa sẽ tu hành thánh quả thành bậc thánh nhân. Vì thế sau này là Kiều Trần Như khi biết tin Thái tử Tất Đạt đa của chúng ta xuất gia là ông ta cũng xuất gia đi theo luôn, và ông ta tin chắc rằng dự đoán của ông đã đúng và biết rằng Đức Phật sẽ trở thành bậc thánh nhân và ông ta có thể học đạo được. Bốn năm người người thầy tướng khác cũng dự đoán như thế và khi họ qua đời, họ có dặn con là con của họ là sau này phải đi theo cái vị thánh nhân ấy để học đạo và tạo nên nhóm 5 người của của ngài Kiều Trần Như đó, chính là con của những vị thầy tướng này, chứ họ không phải là ai khác. Cho nên khi mà bà bồ tát của chúng ta bỏ cái lối tu khổ hạnh là làm họ thất vọng. Họ nghĩ rằng ngài đã từ bỏ con đường tu hành để trở thành bậc thánh nhân. Nhưng mà vì nhân duyên xưa, cho nên họ vẫn được Đức Phật độ cho đầu điên, và lại trở thành đệ tử được nghe Pháp đầu tiên của Đức Phật và cũng là người chứng quả Thánh A La Hán đầu tiên trong hàng đệ tử tăng đoàn của Đức Phật. Thế thì vì có thể dự đoán như vậy, cho nên mới dẫn đến cái câu chuyện này là vua Tịnh Phạn rất lo lắng. Đến thời điểm thái tử Tất Đạt đa trưởng thành, thì chúng ta biết rằng là vua Tịnh Phạn còn một người con trai nữa, đó là Nan Đà, là con của bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề với vua Tịnh Phạn, tức là vua Tịnh Phạn có hai người con trai chứ không phải là có thái tử Tất Đạt Đa là duy nhất, mà khi ngài đi tu là ngai vàng không có người kế thừa đâu. Cái đó chúng ta đang không rõ về vấn đề lịch sử. Vua Tịnh Phạn cưới một lúc là hai anh chị em gái, gia đình của vua Ma Ha Ba Xà Ba Đề hay là vợ của vua Tịnh Phạm là thân mẫu của Đức Phật, là con có 8 chị em gái và được gả cho bốn anh em trai của vua Tịnh Phạm. Vua Tịnh Phạn có bốn anh em trai, cho nên sau này ngài A Nan. Thế rồi một số các tôn giả như A La Luật… đều là anh em con chú, con bác ruột với Đức Thế Tôn. Bởi vì là bốn anh em giai lấy tám chị em gái, bản thân vua Tịnh Phạn là cưới hai người và một người là sinh ra thái tử Tất Đạt Đa, một người sinh ra sau này là A Nan Đà. Sau này khi Đức Thế Tôn thành đạo đã dẫn A Nan Đà đi tu.  Thái tử Tất Đạt Đa là con của Hoàng hậu chính thất sẽ được truyền ngôi, trong hai vị thái tử là A Nan Đà và Tất Đạt Đa – Đức Phật của chúng ta thì Thái tử Tất Đạt Đa có tướng mạo xuất chúng hơn nhiều và sự học thông minh, đức hạnh đã xuất chúng hơn, nhà vua là kỳ vọng sẽ trở thành người nối ngôi và kỳ vọng của nhà vua không chỉ là nối ngôi mà kỳ vọng ở chỗ với ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp sẽ thống lĩnh toàn thế giới, tức là cai trị cả nhân loại, cho nên mới đặt tên là người gánh vác. Tất Đạt Đa là người gánh vác trách nhiệm, và chính dấu hiệu cho thấy rằng sự thông minh xuất chúng, sự ưu tư về cuộc đời, cho nên nhà vua đã họp bàn với quần thần là đầu tiên là sẽ làm lễ quán đỉnh chính thức xác nhận đó là thái tử là người kế vị ngai vàng, lễ quán đỉnh đã được thực hiện sau lễ quán đỉnh đó, nhà vua đã bàn với các quần thần cưới vợ để cho rằng là gia đình sắc đẹp nữ nhân sẽ trói buộc người ta, và nhà vua đã đồng ý với việc đó và đã cưới vợ cho thái tử từ lúc 16 tuổi. Và công chúa Da Du Đà La đã được lựa chọn và ngoài ra là còn có cưới hai bà phi nữa, Da Du Đà La là chính thất thôi vì chúng ta biết rằng là chế độ vua chúa không phải là lấy một vợ mà rất nhiều. Ngoài ra gọi là phi tần là có hàng ngàn và như Đức Phật nói là nhà vua đã xây ba cái cung điện và mỗi một cung điện là có 1000 người phục vụ, trong đó có năm trăm mỹ nữ, là phi tần. Và mỗi một cái cung đó là có một bà gọi là giống như Hoàng hậu, Thái tử phi quản cung đó mà những người phục vụ là 500 người nữa, tức là mỗi một cây cung điện đó có một ngàn người. Ấn Độ có ba mùa- mùa xuân, mùa hạ và mùa đông, không có bốn mùa. Cho nên xây ba cái cung điện để ở, một cung điện mùa xuân để cho nó hợp thời tiết mùa xuân, một cái cung điện mùa hè để tránh nóng và một cung điện mùa đông để tránh rét. Thế là mùa nào thì sẽ chuyển đến cung điện đó ở. Nhưng mà tất cả những việc đó thì càng trói buộc bao nhiêu thì ý chí xuất trần nó càng trở nên mạnh mẽ bấy nhiêu và ý chí đó càng trở nên mạnh mẽ và quyết liệt là khi Thái tử đã đi ra bốn cửa thành và thấy được bốn tướng sinh – già – bệnh – chết. Và lúc bấy giờ trong tâm thức của một vị bồ tát đã được sống lại và con đường tu hành xuất thế để trở thành vị Phật trong cái kiếp cuối cùng đã được bừng sáng trong tâm và với điều kiện như thế thì không có một sức mạnh nào thế gian, không có một ngôi báu nào không có một sự cám dỗ nào có thể ràng buộc được. Đó chính là động cơ thúc đẩy Bồ Tát của chúng ta vượt thành xuất gia và cầu đạo thực hiện bước cuối cùng để trở thành vị Phật vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chúng ta xin nghỉ ở đây, hôm sau sẽ tiếp tục nhiệm phần còn lại.

Thực ra lịch sử của Đức Phật thì chúng ta có rất nhiều tài liệu, những bộ sử rất đồ sộ rất chi tiết, bài này chỉ là phần lược sử những nét chính thôi. Về trong Phật giáo Đại Thừa có một bộ kinh, xin giới thiệu là Phật Đản Hạnh Tập kinh, bộ này có tới gần hai chục quyển nói về cuộc đời của Đức Phật, từ lúc Đản sinh đến khi nhập Niết Bàn. Cái này là do Kinh Đức Phật thuyết. Và một bản nữa của Phật giáo Nam truyền đó là Đại Phật sử, ghi lại toàn bộ lịch sử đầy đủ của Đức Phật Phật.
Ngoài ra, các bộ lịch sử sau này mà do các thế hệ sau rồi biên chép rồi viết thành sách này, viết thành những câu chuyện, ví dụ như là chuyện lịch sử của  Đức Phật đường xưa, mây trắng của Thiền sư Nhất Hạnh ấy chẳng hạn. Đấy là lối viết theo lối tiểu thuyết, nhưng mà cái chính vẫn là dựa vào các bộ sử cũ và kinh điển của Đức Phật. Để sáng tác, giúp chúng ta dễ đọc, dễ hiểu. Mong rằng nếu các Phật tử chúng ta có điều kiện đọc các sách đó, chúng ta sẽ hiểu hơn về cuộc đời Đức Phật học hôm nay.

Phần 02

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. A Di đà Phật.

Chúng ta tiếp tục bài học thứ hai về lịch sử Đức Phật Thích Ca từ Giáng sinh đến thành đạo. Phần thứ 5 là nói về nhận rõ bốn cái tướng khổ đời.

Kinh văn:

V. NHẬN RA BỐN TƯỚNG KHỔ Ở ĐỜI. 

Một hôm, nhân ngày lễ hạ điền, Thái tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời quang đãng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái bình, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nổi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ. Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã.

Ðến cửa Nam, thái tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên xiết, đau đớn vô cùng.

Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi lằng bu bám, và sình lên, trông rất ghê tởm.

Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà thái tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng.

Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh, và thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị sa môn đáp rằng: “Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời, để cầu cho mình khỏi khổ và được thành chánh giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát như mình”.

Lời giải đáp trúng với hoài bão mà thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh-Phạn không nhận lời. Thái tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều này là:

1. Làm sao cho con trẻ mãi không già

2. Làm sao cho con mạnh mãi không đau

3. Làm sao cho con sống hoài không chết

4. Làm sao cho mọi người hết khổ

Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không thể giải quyết được điều nào cả.

Giảng giải chi tiết:

Thông thường thì bốn tướng khổ này trong kinh sách thường nói đến sinh – già – bệnh và chết, đây gọi là tứ khổ tướng hay là bốn tướng khổ. Thông thường thì quan niệm của thế gian người ta cho là vạn pháp thường hằng, cho nên không có sự thay đổi. Xong thì thực tế mọi thứ nó vẫn diễn ra và đối với con người ấy thì cứ quy luật của nó là có sinh ra, có già đi, có bệnh tật và có chết chóc. Và đó chính là quy luật của vô thường, vô thường diễn ra hằng ngày trong từng sát na của tâm thức chúng ta và tất cả vạn vật. Bời vì Thái tử Tất Đạt Đa, chúng ta biết rằng là sống trong cung vàng Điện Ngọc, cho nên là cho đến khi ngài trưởng thành, chưa từng tiếp xúc với thế gian, đến khi ngài mới được phép vua cha cho đi dạo bốn cửa thành. Bốn cửa thành này, ngài thấy có 4 cái hiện tượng và đây là có ba cái khổ tướng và một xuất thế tướng. Ba khổ tướng đó là thấy người già, bởi vì xưa nay ở trong cung toàn là cung tần mỹ nữ, những người đẹp cho nên thái tử chưa từng tiếp xúc và nhìn thấy một người già, lụ khụ này khác. Trong kinh nói rằng là lúc bấy giờ ngài đi ra ngoài cửa thành, nhưng nhà vua trước đó đã ra lệnh cho dân chúng rồi, ra lệnh cho mọi người là dọn dẹp đường sá rồi quét tước, không để cho những cái cảnh mà nó không được đẹp mắt xuất hiện trước mặt thái tử. Nhưng ở đây thì sự xuất hiện của người già này là do Chư Thiên. Chư Thiên muốn nhắc nhở Bồ tát của chúng ta về con đường xuất thế gian, sợ rằng là ngài đang vướng mắc trở lại con đường thế gian, cho nên hiện ra tướng người già. Thấy có người rất là lạ mà xưa nay chưa từng nhìn thấy bao giờ, cho nên thái tử có hỏi Sa Lạc là người đánh ngựa, đây là vật gì vậy, thật ngỡ ngàng như vậy. Ngày nay thì đọc những đoạn kinh như vậy rồi, xem những cái mẩu chuyện như vậy thì chúng ta thấy rất là phì cười. Bởi vì tại sao một người lại không biết đấy là một người già, bởi vì một người sống từ nhỏ trong cung mà không bao giờ nhìn thấy người già cả, thì sẽ nhìn thấy người già sẽ trở thành một hiện tượng lạ. Trẻ nhỏ bây giờ là ngay từ nhỏ đã sống với ông bà, với những người già, người bệnh khác nhìn là phân biệt được ai già ai trẻ, nhưng đối với thái tử từ lúc lớn lên chưa từng nhìn thấy người già. Cho nhìn thấy người già thì lấy làm lạ và hỏi rằng đó là vật gì vậy. Người hầu nói là: thưa thái tử đó một người già. Bảo vậy người già là thế nào. Nói rằng là nó là sự biến hoại của các sắc, rồi lưng còng mắt mờ, chân chậm, người trí tuệ giảm sút. Đó là biểu tượng của già. Thái tử có hỏi mai kia ta có già không. Và Sa Lặc trả lời rằng rồi sau này Thái tử cũng sẽ già. Nghe cái câu nói như vậy làm cho thái tử chấn động. Bởi vậy ta cũng già chăng và lúc bấy giờ bỏ cuộc đi dạo và lập tức trở về cung. Rồi lần lượt đến cửa thứ hai cũng vậy, thì lần thứ hai là thấy một người bệnh nằm không có người chăm sống ở bên đường rên xiết khổ đau. Cũng tương tự như vậy, thái tử biết rằng tương lai mình sẽ già, sẽ bệnh và cũng bỏ dở cuộc đi chơi đó rồi lại quay trở về. Và lần thứ ba thì thấy một người bị chết ở bên đường và cũng hỏi rằng sau này ta có chết không? Người ta khẳng định tất nhiên là sẽ phải chết. Trong sự đó nhắc nhở cảnh sinh già bệnh chết, để cảnh tỉnh với vô thường. Với suy nghĩ như vậy thì trong tâm của thái tử khởi lên, vậy trong cái sinh là bệnh chết ấy có thể có con đường nào không sinh ra bệnh chết không?
Có thể cái có gì thoát ra khỏi cái sự khổ đau của sinh ra bệnh chết hay không. Lần thứ 4 thì chúng ta thấy thái tử gặp được một vị Sa môn- là một vị tu sĩ, tất cả những cảnh này đều do Chư Thiên xuất hiện để mà nhắc nhở. Sau khi đàm đạo với vị tu sĩ ấy thì trọng tâm của thái tử Tất Đạt Đa lóe lên con đường đó là phải xuất gia. Sau nhiều ngày nung nấu suy nghĩ, ngài có thưa cái việc đó với phụ vương, khi nghe cái lời thưa như vậy thì làm cho vua Tịnh Phạn chấn động, và trong kinh có nói là thân phụ của ngài đã ngất đi khi nghe thấy con mình muốn xuất gia. Bởi vì chúng ta biết rằng ngay cả thời đại bây giờ những gia đình tầm thường thôi mà con cái muốn đi tu cũng không có dễ. Chúng tôi thì biết rằng, trong 100 người đi tu, chỉ có một vài ba người được cha mẹ đồng ý hỗ trợ cho xuất gia thôi. Còn phần lớn đấy, dù cho cha mẹ có tin Phật, dù cho là tín đồ của đạo Phật nhưng mà nói đến chuyện xuất gia của con cái là hầu như không có đồng thuận. Đối với vua Tịnh Phạn, chuyện đó lại càng khó khăn hơn. Bởi vì nhà vua có thái tử để kế vị ngai vàng, mà nhà vua thì cũng đã cao tuổi rồi, không liên quan đến một mình nhà vua mà liên quan đến cả một quốc gia, cả một dân tộc. Nếu một quốc gia mà không có người thừa kế ngai vàng mà không có người cai trị dân chúng đất nước mà không không có sự ổn định vững chắc, thì sẽ dẫn đến họa ngoại xâm rồi trong bước là bất ổn. Và do đó làm nhà vua rất kinh ngạc. Mặc dù khi thái tử ra đời là đã được dự báo trước chuyện đó rồi nhưng mà cũng không tránh được chuyện là nhà vua sốc dẫn đến bất tỉnh. rất nhiều người đại thần khuyên can này khác. Người nhà vua cũng giảng giải khuyên can bằng mọi cách đưa thái tử, thái tử thì cái tâm xuất ra hết sức kiên cố. Chính vì vậy, ngài mới đặt ra 4 điều kiện.  Làm thế nào để cho con người trẻ mãi không già, điều này không thể có được. Xưa nay trên thế gian này có người cho rằng là có các kỹ thuật tu hành để trường sinh bất lão, cái đó không bao giờ xảy ra được. Chúng ta biết rằng là chân lý của đạo Phật đã nói, tất cả các pháp hữu vi, hữu vi tức là những pháp có tạo tác, có hình tướng thì nhất định sẽ phải biến họa. Mà con người đã sinh ra thì nhất định phải già chết, không có cách nào, không có thuốc nào khiến cho người ta không già, không chết được. Cái đó không bao giờ có được, và cũng không thể làm sao cho khỏe mãi mà không đau, ốm bệnh tật. Đó không xảy ra được. Làm sao mà sống mãi không chết, sống mãi không chết là chuyện không không xảy ra. Chúng ta mặc dù trong Phật pháp nói là đạt đến cái chỗ không sinh tử, tức là chấm dứt được nguyên nhân sinh tử và không còn sự đầu thai kiếp sau thôi chứ không phải là trường sinh bất lão. Trên thế gian này không có thuốc trường sinh bất lão, không có pháp tu để đạt đến trường sinh bất lão. Cái này phải nhận thức rõ, đây là bốn điều, và điều thứ tư là ngoài bản thân mình thì làm sao cho tất cả chúng sinh đều hết khổ. Khổ là bản chất của chúng sinh và nhân loại. Và chính trong con đường mà chúng sinh đau khổ ấy, đạo Phật mới cần xuất hiện để tìm ra con đường thoát khổ này.
Cho nên Đức Phật nói là đạo của ta chỉ nói về khổ và con đường thoát khổ. Và chính từ lý do này- thôi thúc thái tử Tất đạt đa của chúng ta từ bỏ vinh hoa phú quý để mà quyết tâm tu hành, tìm ra con đường thoát khổ hết chính bản thân mà cho cả nhân loại.
Phần thứ 6 là sự xuất gia tìm đạo.

Kinh văn:

VI. SỰ XUẤT GIA TÌM ĐẠO   

Tịnh-Phạn vương, khi biết được ý định xuất gia của thái tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong “cung vui”. Nhưng một khi thái tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được ý định của Ngài.

Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, thái tử lén trổi dậy, nhìn vợ con từ biệt một lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa-nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy trò cùng nhau trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi.

Sau khi vứt bỏ cuộc đời vương giả, Thái tử đi vào rừng sâu tìm đạo.

Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Những hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dãi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách rất ghê rợn. Thấy cách tu hành như thế không có hiệu quả, Ngài khuyên các vị ấy nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương cho họ, bèn tìm nơi khác mà tu hành. Ngài đi hết chỗ này đến chỗ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo thì Ngài tìm đến học; nhưng đến đâu Ngài thấy đạo của họ cũng còn hẹp hòi, thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Từ đấy, Ngài tìm chốn tu tập một mình, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân hình mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngã lịm trên cỏ, và được một người chăn cừu đến đổ sữa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó, Ngài nhận thấy nếu muốn tìm đạo có kết quả, cần phải bồi dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không thể bỏ quên nó đi được.

Khi thấy mình đã đầy đủ sức lực để chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây bồ đề và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo thì thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này.”

Giảng giải chi tiết:

Nói đến sự xuất gia tìm đạo của Đức Phật, chúng ta biết rằng là sau khi chứng kiến bốn cái tướng như vậy sinh già, bệnh chết và hình tượng của một vì sao muốn xuất gia đã đánh động tâm thức rất lớn của Thái tử Tất đạt đa để tìm con đường giải thoát giác ngộ. Nhưng mà khi được Thái tử đề nghị cho phép xuất gia thì vua Tịnh Phạn đã tìm cách để ngăn cản. Bằng cách là xây cung điện ba mùa rồi cưới vợ cho thái tử và trước đó thì nhà vua sau khi đã cưới vợ rồi thái tử vẫn tiếp tục đòi đi xuất gia, mà nhà vua có nói là đừng để đoạn tuyệt với dòng giống của nhà vua, muốn thái tử phải có con. Chính vì vậy, cho nên đó là một sự ràng buộc, và nhà vua nghĩ rằng nếu một người đã có gia đình, có vợ con thì càng trói chặt người ta lại thế gian và không có cách gì thoát ra được, nhà vua có yêu cầu là nếu có con thì có thể đi tu được. khi công chúa Da Du Đà La của chúng ta đã có thai và sinh cho thái tử Tất Đạt Đa 1 người con trai có đặt tên La Hầu La. Chính vì cái chữ tên La Hầu La này thì có rất nhiều cách giải thích. Theo Phật giáo Nam Truyền thì khi ấy, lúc mà công chúa Da Du Đà La sinh cho thái tử được một người con, người ta chạy đến báo tin cho thái tử biết là đã sinh một người con trai và trong cung rất vui mừng. Và có hỏi Thái tử đặt tên là gì? Trong lúc bấy giờ, buột miệng cho nên thái tử Tất Đạt Đa nói ra Gu La, tức là chúng ta gọi là La Hầu La, tức là chướng ngại, sự trói buộc con. Theo Phật giáo Bắc Truyền thì cho rằng lúc bấy giờ thái tử mới có mười chín tuổi và nhà vua có yêu cầu là thái tử cũng phải có con, có con là thái tử đã chỉ tay vào vào bụng của công chúa Da Du Đà La nói rằng là đã có thai. Chính vì vậy dẫn đến thời gian tu hành và học đạo của thái tử giữa Nam truyền và bắc truyền có hai vấn đề khác nhau. Nếu theo Bắc truyền thì ở đây chúng ta ghi là Thái tử xuất gia vào ngày mồng 8 tháng 2 năm, năm ngài mười chín tuổi. Do đó, ngài có trải qua 5 năm tìm thầy học đạo, 6 năm tu, như thế là mất 11 năm và bước sang năm ba mươi mốt tuổi ngài mới thành đạo. Thế thì nó xảy ra một vấn đề là nếu Thái tử xuất gia lúc bấy giờ công chúa da du Đà La mới bắt đầu có thai, thì khi ngài thành đạo là La Hầu La ít nhất là 11 đến 12 tuổi, nhưng trong kinh đều thống nhất là thái tử xuất gia lúc bấy giờ mới có La Hầu La 7 tuổi, vậy thì nó có một khoảng chênh 6 năm. Chính vì vậy cho nên là trong kinh điển Bắc truyền ấy thì cho rằng là công chúa Da Du Đà La đã mang thai, đấy là La Hầu La tới 6 năm mới sinh. Cho nên mới đặt tên là La Hầu La, tức là Phú Trướng là sự chướng ngại. Khi sinh ra thì lúc bấy giờ đúng vào cái ngày nhật thực, nhật thực là cho rằng A Tu La lấy tay che mặt trời, trời đất tối sầm lại, phú trướng tức là che đậy, , và cũng vì thế mới có tích trong bài tán khai kinh kệ, tán hương chúng ta có câu là Da Du Từ mẫu lưỡng vô ương, Hỏa Lội Đắc Thanh Lương  – nói đến thái tử xuất gia rồi, lúc bấy giờ mà công chúa còn đang mang thai, mang thai rất là nhiều năm. Lúc bấy giờ đến khi thái tử xuất gia sáu bảy năm sau thì công chúa mới sinh con và hoàng tộc cho rằng cái đứa con ấy là không phải con của thái tử Tất Đạt Đa, đó là sự sỉ nhục đối với hoàng thất và quyết định đưa cả hai mẹ con đấy lên trên giàn hỏa thiêu sống, cho rằng không hề huyết thống. Nhưng mà công chúa thì khẳng định là mình trong sạch vẫn giữ được tiết hạnh từ trước đến nay chưa từng có làm cái điều gì là bất chính cả. Khi mà hai mẹ con dắt lên trên giàn hỏa thì công chúa có phát lời thề nguyện rằng nếu mà đây mà không phải là con của thái tử Tất Đạt Đa thì xin cho ngọn lửa này thiêu cháy chết cả hai mẹ con. Nếu mà quả thật là con của ngài ấy thì lập tức cho ngọn lửa sẽ tắt. Cho nên mới có câu là Da Du Tử mẫu lưỡng vô ương, tức là Da  Du và La Hầu La- cả hai mẹ con là đều thoát qua được cái họa bị thiêu sống, mới gọi là Hỏa Lội Đắc Thanh Lương thế mà ngồi trên giàn hỏa, lửa không bắt và không cháy, vì thế nó mới dẫn đến câu chuyện như vậy. Còn Nam truyền Phật giáo thì người ta cho rằng là thái tử xuất gia năm ba mươi tuổi và đến năm ba mươi tuổi thì thành đạo, và lúc bấy giờ ấy thì La Hầu La vừa mới sinh. Cho nên có những tranh vẽ chúng ta thấy trước khi thái tử xuất gia chính là cái buổi tiệc đêm hôm đó là giống như tiệc mừng La Hầu La sinh ra đầy tháng, đầy năm, cho nên là cung điện tổ chức tiệc rất lớn, vì thế mới có cái đoạn mà thái tử Tất Đạt Đa vào trước cửa phòng của vợ và con mà không dám từ biệt, chỉ nhìn qua cửa rồi lập tức lên ngựa xuống ngựa. Đấy là chính là cơ hội. Khi ấy trong cung mở tiệc linh đình và Thái tử đã đi xuất gia, thì trong trong kinh có nói là lúc bấy giờ các vị chư thiên nói rằng nếu mà thái tử không xuất gia và đêm ngày hôm đó thì hôm sau ngài sẽ phải trở thành một vị chuyển luân thánh vương và cơ hội xuất gia sẽ không không còn được nữa. Và chính vì vậy, vào nửa đêm, khi mà cái sự canh phòng của cung điện đã không còn có sự cẩn mật nữa. Thế rồi mọi người vui vẻ tiệc rượu… cho nên là Thái tử đã gọi người hầu đó là Sa lặc, và dắt con ngựa mà ngài thường hay cưỡi sử dụng, Kiền Trắc đã vượt qua cửa thành. Lúc bấy giờ đi ra cửa thành là Chư Thiên- Tứ Thiên Vương đã dùng thần lực để nâng bốn chân con ngựa để có thể bay qua được tường thành rất là cao. Sau đó thì ngay đêm hôm đó con ngựa nó có thể đi hàng ngàn dặm và đưa thái tử đến rừng khổ hạnh lân. Trong kinh, nói rằng con ngựa Kiền Trắc này, nó sinh cùng với ngày về Thái Tử, Sa Lặc cũng là người sinh cùng ngày với Thái tử và cây bồ đề mà sau này mà Đức Phật của chúng ta ngồi dưới đó để tọa thiền thành đạo thì cũng được sinh vào cùng ngày với thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi rời bỏ cung điện như vậy, Thái tử đã đi rất xa kinh thành và cởi toàn bộ những y phục mà mình đang mặc của một vị hoàng tử, cùng ngọc ngà, châu báu bọc lại trong cái áo và trao cho người hầu là Sa Lặc trở về. Sa Lặc lúc bấy giờ không muốn trở về và thứ hai nữa là sợ không dám trở về? Nói rằng, bây giờ mà về thì không biết nói với vua Tịnh Phạn thế nào, con ngựa lúc bấy giờ cũng rất là bịn rịn, nó cũng không muốn quay về. Nó cứ khóc ròng, con vật nhạy cảm như vậy. Lúc bấy giờ để trở thành một vị tu sĩ thì phải thay đổi y phục. Thái tử đã đem một tấm áo của mình để đổi cho một người thợ săn, người thợ săn tại sao có y phục của người xuất gia bởi họ đã mặc cái áo như thế để để vào rừng đánh lừa các con thú chết. Thái tử đã đổi cái cái áo của mình cho người thợ săn để lấy tấm áo của một người xuất gia, và ngài tự cắt tóc tự cạo đầu. Kinh nói là khi bây giờ thái tử cắt tóc, cạo tóc đấy. Ngài cắt tóc xong thì ngài cầm cái nắm tóc đỏ có cuộn lại và ném lên trên hư không và phát nguyện rằng nếu mà tôi có thể tu hành thành thạo để hóa độ chúng sinh thì nguyện cho nắm tóc này không rơi xuống đất. Và lúc bấy giờ lập tức Tứ Thiên Vương đã xuất hiện đỡ nắm tóc ấy trên hư không và đem cái tóc ấy ghĩ về cung trời Đao lợi để thờ cúng, sau này có đem trở lại cho nhân gian, một số lời mà sau này có các cái tháp thờ xá lợi tóc của Đức Phật bắt đầu từ chuyện đó. Và do đó, Thái tử biết rằng với quyết tâm của mình đã có sự hộ trì của Chư Thiên, quyết tâm càng dũng mãnh. Thực ra là trước khi mà có Phật giáo xuất hiện Ấn Độ và cho đến bây giờ thì pháp tu khổ hạnh của Bà La môn giáo đã xuất hiện từ lâu rồi, cho nên lúc bấy giờ trên con đường đi tìm đạo như vậy, Thái tử Tất Đạt Đa có một thời gian chúng ta gọi là sáu năm tu khổ hạnh là tu theo phương pháp khổ hạnh của Thế gian Hoàng. Xin giải thích rõ một chút là quan điểm của tôn giáo cổ của Ấn Độ và cho kể cả là Bà La môn giáo ngày nay hoặc Ấn Độ giáo ngày nay thì họ vẫn duy trì phương pháp này. Người ta cho rằng tất cả mọi cái, sự khổ đau của chúng sinh nơi này là đều do nghiệp mà chúng ta đã tạo nên từ đời trước kiếp trước và quan điểm về nghiệp thì họ cũng đã có rồi. Họ cho rằng muốn thoát cái khổ thì con người ta phải tự chịu khổ, chịu hết cái khổ ấy đi thì giải thoát. Một đời này có chịu rất nhiều cái khổ, bây giờ tự hành khổ mình đi, tự làm mình khổ đau, tự làm mình chịu khổ đi thì khi chịu khổ hết rồi thì không còn cái khổ nào phải chịu nữa thì người ta sẽ đạt giải thoát. Đây là quan điểm của ngoại đạo vì thấy họ phải tự hành xác, tu hành theo lối hành xác thân. Người ta cho rằng mọi sự dục vọng trong con người, mọi sự ham muốn người, mọi sự tham sân si trong con người đều do cái xác thân này diễn tiến về. Cho nên, làm cho cái thân này nó mệt mỏi, làm cho cái thân này nó chịu khổ đến tột cùng của nó- người ta tu khổ hạnh là ngồi trên chông gai, để đứng một chân phơi nắng rồi nhịn đói cả ngày… Tất cả những cách đó hoặc là họ tu theo hạnh của ngoại đạo thờ bò, thờ chó, thờ lợn thờ cúng hết. Tu theo đạo của con bò thì phải ăn thứ con bò ăn, đi đứng như con bò. Ví dụ thế, thờ con chó thì  khi anh cũng phải sủa gâu gâu  như con chó thì không phải là ăn cơm với con người, mà ăn các đồ phân nhơ, tức là người ta phải hành khổ như thế để đạt giải thoát và thái tử Tất Đạt Đa của chúng ta tu hành trải qua 6 năm tu như vậy. Ban đầu ngài có đến với hai vị bậc thầy của ngoại đạo và hai vị này đã đạt được cái trong bát định gọi là vô sở hữu xứ định và một vị đã đạt đến cái phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Và trong một thời gian ngắn, Thái tử đã chứng đắc được bậc thiền cao nhất lúc bấy giờ. Mặc dù chứng đắc được các bậc thiền cao nhất, nhưng ngài thấy rằng pháp đó không phải là tu kính, vẫn chưa đạt đến cái giải pháp rốt ráo. Mà nó chỉ làm cho người ta cảm nhận được tịnh lạc ở trong khi tọa thiền mà thôi. Rồi câu hỏi xuất khỏi các tầng bậc thiền định ấy ra thì cái tâm phiền não tham, sân, si nó vẫn còn ở trong tâm và không loại trừ được hết. Chính vì như vậy cho nên là ngài mới nhận thấy rằng, tất cả các pháp tu ngoại nào ấy không giúp đạt đến giải thoát cuối cùng và sau đó thì cũng theo truyền thống ngài tu khổ hạnh, tu khổ hạnh. 6 năm tu khổ hạnh- ban đầu ngày ăn một bữa, rồi bữa ăn một bát, rồi dần dần giảm xuống 1 thìa, một ngày chỉ ăn có mấy hạt vừng, hạt ngô, hạt đỗ thế thôi. Cho đến khi thân hình đã nói là rất gầy – còn da bọc xương. Trong sáu năm như tu như vậy khổ hạnh là không có tắm, không có giặt, không cạo đầu, không có thay quần áo, tối ngủ dưới gốc cây. Chúng ta thử nghĩ một chút thôi. Quán chiếu một chút, chúng ta mới thấy được một người sống trong cung vàng Điện Ngọc cơm bưng nước rót. Ngài nói là khi ngài sống trong trong hoàng cung, dưới chân tượng chưa từng bao giờ đặt xuống dưới đất, đi có thảm trải, đầu cũng không bao giờ bị nắng, lúc nào cũng luôn luôn có bốn cái lọng trắng che trên đầu. Ăn thì sơn hào hải vị, thế mà bỏ là bỏ liền lập tức, sống cuộc đời cô độc một mình, không có bạn, không có thầy, một mình trong rừng sâu. Đức Thế Tôn sau này có mô tả trong kinh khi sống trong rừng như vậy, nó tạo nên một cái cảm giác cô độc và sợ hãi đến mức khủng khiếp. Chỉ cần một cái lá rơi nhẹ thôi cũng làm cho là gì sợ dựng tóc gáy. Nếu mà không có cái sức đại hùng đại lực để trấn áp được cơn sợ hãi thì lập tức người ta bỏ tu ngay. Ban đêm tiếng thú dữ, trùng độc, đang nằm giường đẹp như vậy mà ngủ dưới gốc cây liễu, ngủ được không? Đang ăn sơn hào hải vị như vậy mà đi xin ăn những thứ thức ăn mà người ta bỏ thừa liệu có ăn được không? Thế rồi nhịn một ngày ăn một bữa liệu bây giờ chúng ta có làm được không? Dưới một bữa ăn một bát 1 thìa liệu có duy trì được sự sống không? Một ngày không tắm không chịu được. Trong khi đó sáu năm không tắm, không cạo tóc, không thay áo. Nếu không có định lực, nếu không có sức đại hùng đại lực, không ai vượt qua khỏi cái thử thách cái này. Cho nên Đức Phật có nói sau này trông kinh lịch sử nhân loại, thế gian – những người mà khổ hạnh nhất thì không ai khổ hạnh hơn ta, mọi pháp tu khổ hạnh ngài đều đạt đến cực điểm, trong những người bần uế , trong những người nghèo cùng thì không ai nghèo hơn ta, không có gì cả. Tài sản không có gì ngoài một tấm áo rách bục trên thân, trong những người gọi Bần uế, bẩn thỉu ấy thì không ai bẩn hơn ngài. Hình ảnh lúc bấy giờ tới năm sáu năm không tắm, Ngài nói rằng lúc bấy giờ mà nếu mà chỉ cần dùng tay xoa lên thân thể thì những lông trên thân rồi cáu ghét nó rơi xuống lả tả như là bức vách, nếu mà đặt tay vàosống lưng thì có thể túm được cái xương sườn phía trước, tức là xương sườn và da bụng nó dính chặt với nhau, để tay vào bụng túm được cái xương sống ở phía sau lưng.Thế rồi tu khổ hạnh chưa đủ, thì ngài bắt đầu là nhịn ăn. Nhịn ăn không phải là một ngày, hai ngày mà nhịn 5- 7 ngày, nhịn một tháng. Rồi sau nhịn uống rồi sau nhịn thở, và những cơn đau hành hạ làm cho ngài trở nên là khủng khiếp và cuối cùng là dẫn đến bất tỉnh. Sau khi bất tỉnh như vậy thì có một người phụ nữ chăn bò lúc bấy giờ do cầu nguyện Chư Thiên thì có có sinh được một người con trai. Bà muốn trả ơn cho cho các vị thần khi bấy giờ là thấy Sa Môn Cù Đàm là Đức Phật của chúng ta tu khổ hạnh ở đó. Có người nói rằng là có một vị đang tu. Có lẽ là Chư Thiên hiện ra để thử thách.  Cô nghĩ rằng đó là một vị Chư Thiên. Không nghĩ đó là là một vị Sa Môn tu khổ hạnh, lập tức về nấu cháo sữa và mang đến để dâng cúng. Nhưng mà do là ngài quá mệt cho nên là nằm ngã bất tỉnh rồi. Lúc bấy giờ thì cô gái liền mang cái bát cháo sữa rồi cậy miệng đổ vào, nhờ bát cháo sữa nóng một hồi lâu thì thái tử của tỉnh lại và ngài có suy nghĩ rằng, nếu tiếp tục tu khổ hạnh như thế này thì không bao giờ chứng được gì cả. Nếu có thành đạo đi chăng nữa thì cũng là thành đạo gầy đạo đói mà thôi. Không thành đạo gì. Nên ngài quyết định là bỏ lối tu khổ hạnh, trong thời gian tu khổ hạnh thì chúng ta biết rằng là có năm người bạn đồng tu là nhóm ông Nhã Kiều Trần Như. Trước đã nói là A Nhã Kiều Trần Như chính là một vị tướng sư, thầy tướng trẻ mà xem tướng cho thái tử, lúc thái tử mới sinh và biết rằng là vị này sẽ thành vô thượng chính đẳng. Ông ta đã quyết định đi tu cùng để mong rằng sau này khi ngài thành đạo thì sẽ được Đức Phật hóa độ cho, bốn người còn lại thì chúng ta biết rằng là con của những người thầy tướng lúc nãy, giờ là năm người này đã  đến cùng tu khổ hạnh người giúp đỡ và khi ngài tu khổ hạnh như vậy thì họ rất khâm phục, và họ cho rằng sớm muộn gì cách tu khổ hạnh đó cũng sẽ chứng đạo. Mà khi thấy Thái tử là bỏ lối tu khổ hạnh, ăn trở lại cháo sữa cái thì họ đã mất niềm tin. Lập tức là năm cái nhóm người này bỏ bỏ Thái tử lại một mình trong rừng và họ đi tìm chỗ khác. Tại sao Sa môn Cù Đàm của chúng ta đã xuống sông Ny Liên Thiền để tắm nắng, Trong Kinh có nói là do sức yếu quá mà bờ sông nó dốc, thế rồi nước nó chảy, cho nên là không đủ sức để mà lên nữa. Bây giờ cái vị thần cây đa của chúng ta phải vít cành cây xuống, thế rồi Thái tử mới túm vào cành cây ấy có thể leo được lên bờ. Cho nên tại sao có những cây trong kinh, trong luật nói nó thuộc cây của Đức  Phật là được trồng trong các chùa, ví dụ như là cây bồ đề, ví dụ như cây đa,  cây hoa ưu đàm, những cái cây liên quan đến cuộc đời Đức Phật, những cây được trồng trong các tự viện từ xưa đến nay.
Rồi sau đó thì ngài đã đến dưới gốc cây bồ đề lúc bấy giờ trong kinh gọi cây Tát Bát La và thấy ở đó một cái khung cảnh rất đẹp, bình an, yên tĩnh rừng núi và có suối và không cách xa làng xóm cho ngài quyết định chọn chỗ đó để làm chỗ tu tập.
Khi ấy thì có người cắt cỏ. Họ đi qua và ngài đã xin một bó cỏ của họ, gọi là cỏ cát tường để chải làm cái đệm ngồi. Hiện nay dưới cội cây bồ đề mà Ấn Độ, dưới cây đó có tòa kim cương. Đấy là cái hòn đá để đánh dấu nơi lời Đức Phật chúng ta ngồi tu thành đạo. Lúc Đức Phật ngồi tu không phải ngồi trên tòa kim cương, nhiều người nhầm rằng là lúc này ngồi trên tòa thành đạo, không Đức Phật là ngồi trên tòa cỏ, cho nên cái đó sau này trong Phật Pháp gọi là bồ đoàn. Bồ đoàn, nghĩa là cỏ bồ được đam thành, nhưng mà đấy là cỏ cắt tường. Cái vỏ này nó giống như cây cỏ ấu của chúng ta dài và nó có mùi thơm, dày là khi chải nó có thể là thay tọa cụ. Và bây giờ ngồi thiền đấy, chính là như vậy rồi. Ngài trải cỏ dày 3 lớp mà ngồi trên đó, ngài có phát nguyện là nếu ngồi đây mà tu hành không chứng được đạo vô thượng, chính đẳng, chính giác thì dù cho thịt nát xương tan cũng không cần đứng dậy.
Cho nên sau khi ăn bát cháo sữa, tắm rửa, trải cỏ. Và với kinh nghiệm trước đây trong lễ tịch điền đấy, về cái  tứ thiền mà ngài đã vào được sơ thiền, cho nên là đức thế tôn của chúng ta lúc bấy giờ mới dùng phương pháp thiền định này để đi sâu vào trong con đường giải thoát giác ngộ và đây chính là cái giai đoạn mà ngài đã xuất gia tìm đạo và tu khổ hạnh.

Chúng ta sang phần thứ bảy là nói về vấn đề thành đạo Đức Phật. Về vấn đề thành đạo của Đức Phật thì trong kinh điển và tất cả những hệ thống giáo lý truyền tải rất kỹ vấn đề này. Thường thì trong kinh điển Đại Thừa, Bắc truyền nói rằng Đức Phật của chúng ta đã ngồi tọa thiền dưới cội cây bồ đề này 49 ngày đêm, Phật giáo Nam truyền  ngài thành đạo ngay sau khi mà ngài ăn bát cháo sữa. Chỉ có một ngày, còn Bắc chuyện là bốn 49 chín ngày. Nói chỗ này để chúng ta khi chúng đã đọc kinh điển Nam Truyền Bắc truyền thì thấy có quan điểm khác nhau về chuyện này. Thế thì bằng cái kinh nghiệm thiền định mà trước đây ngài đã có được, cho nên là lúc bấy giờ ngài đã vào Sơ thiền, Nhị Thiền, Tam thiền, Tứ thiền, rồi vào trong bát định cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định, cuối cùng là vào cái thiền diệt thụ tưởng định. Và khi ấy ngài quán chiếu thấy được và cắt đứt được toàn bộ các phiền não lậu tận từ nhiều đời, nhiều kiếp. Cho nên nói rằng là chiến đấu với ma quân, chữ ma trong Phật giáo thì chúng ta phải hiểu thế này, cho nên thời điểm Đức Phật thành đạo trong kinh điển gọi là hàng ma thành chính giác. Hàng phục ma thành chính giác. ma thì có 4 loại. Thứ nhất, đó là cái ma ngũ uẩn- ngũ ẩn ma. Ngũ uẩn ở đây thì nó là một thuật ngữ trong Phật giáo, chỉ cho 5 cái tổ hợp sắc thụ là cảm thụ, toàn là những ấn tượng mà chúng ta ghi vào trong tâm tưởng, đó là sự vận hành của tâm thức và cuối cùng là thức là nhận thức. Năm yếu tố này gọi là ma. Nó ở chỗ nào mà là gì mà là sự chướng ngại sự nhận thức hay chướng ngại sự giác ngộ cho gọi là ngũ ấm mà bọn ngũ uẩn ma. Sở dĩ tại sao nó chướng ngại chúng ta giác ngộ, chướng ngại chúng ta giải thoát là bởi vì chúng ta chấp cái thân này là tôi, là ta, cho là tai của tôi đây, mắt của tôi đây là thân của tôi. Đây là suy nghĩ của tôi, đây là tư tưởng của tôi, đây là cảm xúc của tôi, đây là cái sự nóng giận của tôi và tất cái gì nó đều gắn với cái tôi này. Mọi khổ đau, mọi vấn đề xảy ra trên xã hội này trên toàn nhân loại này đều bắt nguồn từ chữ tôi này. Do đó làm cho chúng ta không thấy được cái bản chất sự thật là vô ngã. Con người ta không có ngã, ngã là gì, ngã là chủ thể, cái mà có thể quyết định tất cả mọi thứ. Trong kinh Đức Phật nói, ví dụ như một ông vua của một đất nước thì ông ta có quyền quyết định toàn bộ các công việc của đất nước. Thế thì nếu mà trong cơ thể chúng ta có một cái tô, cái ngã đấy thì nhà ai có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của chúng ta, nhưng chúng ta không tự quyết định được bản thân mình. Ví dụ như Đức Phật nói là nếu bây giờ muốn bản thân mình không già có được không?Chúng ta không tự quyết định muốn cho chúng ta không, bệnh có được không? Chúng ta không quyết định được. Muốn cho chúng ta không phiền, chúng ta có quyết định được không? Quyết định rồi và như thế không có cái gọi là ta, cái ngã đấy. Xưa nay người ta mắc vào chỗ này. Ngã tức là cái chủ để, chúa tể quyết định tất cả mọi vấn đề thì chúng ta không có cái cây ngã này. Mà người ta cho rằng là thế thì có một cái ngã, đó là cái đại ngã, tức là thượng đế quyết định. Thượng đế chỉ là thuộc cái dạng chúng sinh thuộc năm uẩn ở chỗ vi tế khác. Bản thân ông ta cũng không tự quyết định được tất cả mọi vấn đề của ông ta, chứ đừng nói là quyết định vấn đề của nhân loại và con người, cho nên là không có đại ngã để quyết định cái tiểu ngã. Nói rằng Đức Phật Hàng Ma Thành chính giác thì không biết là hàng ma gì, trước hết là hàng ma mũ uẩn này. Thấy rõ năm uẩn đều không, trong Kinh Bát Nhã có cầu rất quan trọng là Quán tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách – nếu thấy rõ 5 uẩn đều không, nó chỉ là một tổ hợp kết hợp với nhau thôi. Sắc tức là xác thân của chúng ta gồm 4 yếu tố địa thủy hỏa phong hợp lại. Với bốn yếu tố, nó thuộc về danh là thụ (cảm thụ) tưởng, hành và thức, bốn cái này với nhóm sắc thành năm nhóm tổ hợp, phân tích là giống như một cái xe thì khi kết hợp các yếu tố vào thì người ta gọi đó là cái xe, nhưng khi tháo rời các bộ phận ra thì không có gì gọi là cái xe ở trong đó cả. Cho nên trong cái xe để không có gì được là xe, trong chúng ta không có gì gọi là cái tôi cả, mắt không phải là tôi, tai không phải là tôi, mũi lưỡi không phải tôi, cho nên tinh thần tư tưởng, cảm xúc, không có ngã. Thứ nhất ma đầu tiên là ma năm uẩn.
Thứ hai là do năm uẩn ấy mới sinh ra phiền não, gọi là ngũ ấm ma, thứ hai là phiền não ma, phiền não ma thì nó là căn bản của phiền não, gồm có tham dục, sân hận và si mê. Tham là những gì mà chúng ta cảm thấy ưa thích, vừa lòng thì nó sinh ra cái tâm tham. Sân là mặt trái của tham. Cái gì mà chúng ta không thể không thích mà chúng ta phản ứng với nó thì nó thành sân. Nằm trong cái khoảng giữa tham và sân ấy thì nó gọi là Si, vô ký ấy gọi là mê. Ba yếu tố tham sân si này đều từ nguồn gốc của nó là chấp ái, về thân là ngã.  thứ ba mà trong Phật pháp nói đây là hàng phục, đó là tử ma, chữ tử ma thì người ta thường hay nhầm lẫn là tử ma là người chết thành ma. Cái đó mới hiểu một sai lầm căn bản về Phật pháp, tử là cái chết chứ không phải là chết thành ma. Chúng ta đang tu hành, chúng ta đang làm sự nghiệp này. Chúng ta đang có cuộc sống vui vẻ tốt đẹp này và tự nhiên cái chết đã đến một cách đột ngột cắt đứt cái mạng sống của chúng ta, như thế chúng ta không tu được. Chúng ta đang ta có công ăn việc làm mà tự nhiên cái chết cắt đứt thì cái đó là một sự ma chướng, cho nên đấy chấm dứt sinh mạng mà trong khi tuổi thọ chưa hết, khi chúng ta chưa chứng đạo, khi chúng ta chưa ngộ đạo thì đó là một loại ma chướng, ma ấy chính là ma của sinh tử, cho nên là chấm dứt được sinh tử thì kết thúc được cái này. Ví dụ như bản thân chúng tôi đang tu thế này chẳng hạn, năm nay năm 60 tuổi nhưng mà vẫn chưa chứng đạo, chưa ngộ đạo, chưa giải thoát, đánh đùng ngày mai chết chẳng hạn thì cái chết ấy là một ma chướng. Nếu mà có phúc báo để kiếp sau trở lại làm người tiếp tục tu nữa, thì lại phải làm lại từ đầu, rồi lại phải đầu thai lại phải tu hành này. Đã tu hành như thế thì tất cả những gì tích lũy đời này kiếp này hầu như là kiếp, sau sinh ra là quên hết, không còn nhớ gì cả, lại phải Tu lại, lại phải học lại, lại phải làm lại tất cả mọi thứ, gần như từ đầu. Nó chỉ tích lũy được một chút tư lương thôi. Đấy là nói may mắn trở lại làm người, may mắn được gặp Phật pháp, may mắn được đi tu. Thế còn không may mắn thì chưa chắc đã được làm người, không may rơi vào địa ngục, ngã quỷ, súc sinh thì không biết bao giờ mà sinh ra được. Đấy mới là ma. Nhưng chúng ta cứ nghĩ nếu đời này kiếp này chúng ta không được sinh làm người, hoặc sinh được làm người chúng ta không học Phật, mà không may chúng ta chết chúng ta rơi vào địa ngục. Thì ngươi biết một ngày một đêm địa ngục, địa ngục nhỏ nhất, tội nhẹ nhất thì một ngày, một đêm đã bằng 100 năm thế gian rồi. Mà cái địa ngục mà nặng nhất thì chúng ta biết một ngày một đêm của nó bằng tám vạn bốn nghìn năm thế gian. Nếu chúng ta mà rơi vào đó nó không phải là một năm, một tháng mà nhiều khi nó nghìn năm nghìn tháng thì cho đến bao nhiêu Đức Phật ra đời chúng ta chưa chắc đã có được thân người, đấy mới là ma đáng sợ. Tử ma ấy, cái chết nó dẫn đến chuyện này nếu chúng ta không có giác ngộ, không có tu hành. Hoặc là làm súc sinh chẳng hạn- sinh ra làm các con vật ngu si, không biết gì, lấy thân đền mạng cho người ta bị người ta giết hại rồi cứ quanh quẩn chết đi sống lại trong loài súc sinh ấy. Đời này qua đời khác chưa chắc đã có thân phận làm người. Ngã quỷ cũng thế, một ngày một đêm của ngã quỷ nó bằng 500 năm của thế gian, cho nên 500 năm chưa từng nghe thấy tiếng cơm nước chính là như vậy. Trong 500 năm ấy không được ăn uống gì.
Đấy là thuộc về tử ma, và cuối cùng thì đến ma bên ngoài đó là ma ngoại cảnh, gọi là thiên ma. Thiên ma thì chúng ta cứ, trong kinh nhiều lúc thì nói chữ thiên ma. Cho nên nhiều khi chúng ta tưởng tượng đó là ma ở ngoài trời, trên trời dưới đất nhưng mà thiên nhiên là trở ngại hoàn cảnh. Thiên nhiên chính là hoàn cảnh, hoàn cảnh sống, môi trường sống, là trở ngại cho sự tu hành và giác ngộ, ví dụ như là rét quá nó trở ngại chúng ta tu, nóng quá trở ngại, chúng ta tu làm cho chúng ta buồn ngủ, buồn phiền. Thế rồi những chỗ mà ruồi muỗi nóng nực… tất cả những thứ đó đều trở ngại, rồi những cảnh sắc bên ngoài nam nữ… mọi thứ tiếng động sắc thanh, hương vị, xúc pháp thì cái đó nó thuộc về về Thiên Ma, và những cái đó nó cám dỗ khiến cho người ta không thể nhận rõ được bản chất sự thật của con người. Chính vì vậy, cho nên trong suốt thời gian mà tư duy thiền định thì đức thế tôn của chúng ta đã quán chiếu những vấn đề này và lần lượt ngài từng bước một hàng phục được 4 thứ này. Trước hết là nhận thức được Năm Uẩn vốn không thật có và hiểu rõ được bản chất của Năm Uẩn vốn là vô ngã, hiểu rõ bản chất của thế giới vốn là vô thường, hiểu rõ được bản chất của nhân loại vốn là khổ đau, cho nên là sau này trở thành tam pháp Ấn của Phật pháp đấy, tức là vô thường – khổ – vô ngã. Đây chính là những điều Đức Phật đã chứng ngộ. Khi ngài đã đã hiểu rõ được như vậy rồi thì biết được nguyên nhân của khổ.  Biết được cái sự khổ và từ cái sự khổ ấy tìm ra được nguyên nhân của sự khổ, cho nên cái nguyên nhân của sự khổ ấy gọi là tập đế, và chứng đạt được đến cái chỗ ra khỏi sự khổ đau, là diệt đế. Và ngài đã tìm ra con đường để đi ra khỏi cái khổ đau ấy. đạt đến chỗ an vui giải thoát cuối cùng ấy gọi là Đạo Đế.
Vì thế, đây là cái nền tảng căn bản mà Đức Phật đã giác ngộ, và cái nền tảng căn bản ấy không ra khỏi được cái nhân duyên sinh, cho nên điều mà Đức Phật giác ngộ nằm trong có hai chữ: “nhân duyên”. Tại sao lại nói như vậy? Đây nói rằng là canh thứ hai thì ngài chứng được túc mệnh minh, canh thứ ba để chứng được Thiên Nhãn Minh, canh thứ tư sang đầu canh năm thì ngài chứng được là lậu tận minh. Gọi tam minh lục thông. Túc mệnh minh là thấy rõ được tất cả các kiếp luân hồi từ quá khứ yên hiện tại vị lai của bản thân mình và của tất cả chúng sinh và luân hồi ấy nó không ngoài quy luật của nhân quả. Nhân quả ấy là thật chứng được cái nhân quả của bản thân và chúng sinh. Cái thứ hai nữa là Thiên Nhãn Minh, đó là cách nhìn về thế giới, quan sát thế giới quan thì biết được thế giới đã hình thành thế nào, tồn tại ra làm sao, vận hành ra sao và hoại diệt thế nào. Cái điều đó để thấy được hai cái điều này là Đức Phật đã chứng đắc được cái bản chất của con người và vũ trụ. Nói Phật giáo chính là nói đến bản chất của con người mình. Con người là thuộc về túc mệnh, cái đó chứng được, cái vũ trụ là thiên nhãn chứng được. Và cuối cùng ngài chấm dứt được sinh tử luân hồi là do chứng được lậu tận, đoạn trừ được cái nguyên nhân của sinh tử, đó là vô minh phiền não. Vì vậy, Đức Phật đã giác ngộ thành Phật, giác ngộ lý nhân duyên sinh, con người cũng là do nhân duyên mà sinh ra, cũng do nhân duyên mà diệt đi. Thế giới này cũng do nhân duyên sinh ra cũng do nhân duyên và diệt đi. Vì thế trong kinh thường nói là cái này có thì cái kia có, cái này sinh- cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, cái này mất cái kia cũng mất theo, mọi cái xuất hiện trên đời của một chúng sinh cho đến toàn thể vũ trụ đều có sự liên hệ, nhận duyên với nhau và nó không có một chủ thể nào cả. Không có một ông thượng đế nào nắm quyền quyết định này, vì xưa nay người ta thường rơi vào hai cái quan điểm là một là thường kiến, cho rằng là con người ta tồn tại vĩnh viễn. Người chết làm người, dê chết làm dê, người ta thường quan niệm như vậy. Con người ta chết đi là sẽ lại trở lại đầu thai làm người. Con trâu con bò chết đi cũng vĩnh viễn làm con trâu, con bò. Đó là thường kiến. Đức Phật giác ngộ cái điều này đã nhận thấy rằng là tất cả chúng sinh nằm trong vòng luân chuyển lục đạo này. Trời, người, A Tu La địa ngục, ngã quỷ, súc sinh đều do con người ta tự tạo nghiệp và không có thường kiến theo cách là không có linh hồn bất diệt. Có người đoạn kiến- cho rằng chết là hết, không còn gì cả, không còn gì cả, chỉ có tồn tại trong một thời gian ngắn như vậy. Chính vì chết là hết nên người ta cứ làm thiện làm ác thỏa mái không sợ nhân quả báo ứng. Điều giác ngộ của của Đức Phật đã nhận thức rõ được tất cả chúng sinh và nhân loại đều nằm trong sự vận hành của nhân duyên. Con người cũng là do nhân duyên sinh ra, cũng do nhân duyên mà diệt đi. Trong nhân duyên sinh diệt đấy ngài đã tìm ra được con đường đi ra khỏi cái quy luật của sinh diệt, để đạt được những chỗ là không còn sinh diệt. Trong quy luật sinh diệt của vũ trụ thì tìm ra được cái gọi là niết bàn- chỗ không sinh diệt. Vì thế cho nên là vào thời khắc đó gọi là thành Phật, thành Phật thành Phật giác ngộ – giác ngộ được bản chất của con người, vũ trụ và bản chất    nhân duyên sinh.  Những cái đó gọi là thành Phật, chữ Phật chính là giác ngộ, thành Phật chính là thành tựu sự giác ngộ tuyệt đối. Thành tựu sự giác ngộ. Thành tựu này là giác ngộ đạt đến cái chỗ vô thượng, chính đẳng, chính giác. Là cái sự giác ngộ của Đức Phật, không còn có giác ngộ nào cao hơn.
Bởi vì giác ngộ được chân lý tuyệt đối của nhân sinh vũ trụ. Theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền thì ngài thành Phật vào khi Sao Mai mọc của ngày mùng tám tháng Chạp, năm ngày ba mốt tuổi.Còn Phật giáo Nam truyền thì chúng ta biết rằng Đức Phật thành đạo vào ngày rằm tháng Tư. Ngài cũng sinh vào ngày rằm tháng Tư và cũng nhập niết bàn vào ngày rằm tháng Tư. Vì thế, ba ngày ấy trùng nhau, người ta gọi là ngày VeSak. VeSak gọi là ngày Tam hợp, là kỷ niệm hợp nhất ba ngày kỉ niệm của Đức Phật, đản sinh, thành đạo và nhập niết bàn.

Ta sang cái phần cuối của bài này là lần thứ tám ý nghĩa cao cả trong sự xuất gia tìm đạo Đức Phật. Ở đây thì nói về ý nghĩa cao cả việc xuất gia của Đức Phật. Ngoài ba cái vấn đề chính đã được tóm tắt trong bài này là Đại hung, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, ngài xuất gia không vì mục đích cá nhân, mà vì mục đích là cho cả nhân loại. Cho nên trong thông điệp mà ngài nói là vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc, vì an lạc không riêng chỉ cho loài người mà cho cả Chư Thiên, mới là mục đích xuất gia hành đạo của Đức Phật. Nhưng mà một cái ý nghĩa cao cả chúng ta thấy rằng nếu không có sức đại hùng đại lực như đã nói ở trên, thì một người không thể chiến thắng được chính bản thân mình Chúng ta chiêm nghiệm rằng một con người sống trong cung vàng, điện ngọc sung sướng như vậy, một mình chịu gian khổ 6 năm tu khổ hạnh như vậy, nếu không có nghị lực phi thường thì không ai có thể vượt qua được. Chúng ta ngày nay gặp rất nhiều những khó khăn trong cuộc sống, dù người xuất gia hay người tại gia đều có sự chướng ngại, nhưng những sự chướng ngại của chúng ta không có thấm tháp gì so với đức thế tôn của chúng ta cả. Cho nên chúng tôi cũng có một kinh nghiệm là trong lúc tụ tập gặp những chuyện mà gọi là khó khăn này khác thì luôn nhìn vào biểu tượng của Đức Phật, luôn nhìn vào cuộc đời của Đức Phật, để thấy rằng những cái mà mình gặp khó khăn trong trong sự tu hành, trong sự chứng ngại. So với Đức Phật chỉ giống như một vi trần so với cả đại địa này mà thôi. Chúng ta không có gì gọi là khổ, hoặc là chướng ngại việc này, việc khác. Đức Phật còn vượt qua được, huống hồ chúng ta có một chút nhỏ nhoi này, tại sao không vượt qua? Chúng ta học Phật, Chúng ta phải học theo cái tinh thần đại hung, đại lực này. Thế rồi phải học theo tinh thần đại từ, đại bi là gì? Mình tu không phải riêng cho cho bản thân mình, mà mình tu cho tất cả chúng sinh, mình đang đi theo con đường của Đức Phật, học theo Đức Phật, để tương lai thành Phật, thành Phật để phục vụ nhân loại. Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta cũng phải áp dụng cái đó, khả năng của mình đến đâu, cống hiến đến đâu, tận lực đến đâu, phục vụ chúng sinh đến đâu, nên mới nói là có phục vụ được chúng sinh như vậy thì mới có thể thành Phật được. Cho nên có câu phục vụ chúng sinh là cúng giàng chư Phật. Xin thưa, muốn phục vụ được chúng sinh thì chúng ta phải chứng được vô ngã, còn có bản ngã thì khi phục vụ sẽ có chướng ngại. Chúng ta muốn dấn thân là chúng ta luôn luôn tranh đấu với bản thân mình, có thiệt cho mình không, có lợi cho mình không? Chúng ta làm cái gì chúng đã nghĩ lợi đến mình, không bao giờ nghĩ là mình làm mình phải bị thiệt cả, Có đắn đo lợi thiệt là chúng ta đang vướng vào cái bản ngã. Đạo Phật là vô ngã, vô ngã mới vị tha được, nếu không vô ngã không bao giờ vị tha. Bảo là tôi làm việc này vì người này người khác nhưng trong tâm còn có cái ngã, thì cái đó chưa thể gọi là vị tha. Cho nên người ta làm việc này, việc khác cho là phục vụ nhân loại chúng sinh hoặc làm từ thiện nhưng đều là làm trên danh nghĩa cái ngã, tức là cái tôi bên trong, cái tôi ấy là tôi của danh hoặc lợi hoặc bất kể một lý do nào đó vẫn còn liên quan đến cái tôi, thì tất cả những chữ đó chưa đạt đến chỗ từ bi. Chữ từ bi phải xuất phát từ vô ngã mới có từ bi thật, còn có ngã là không có từ bi Phật. Từ bi ấy chẳng qua nó là từ bi giả, từ bi là tình thương. Chúng ta gọi là tình thương, nhưng mà vợ chồng cũng thương nhau, Cha con thương nhau, anh em thương nhau, nhưng mà cái thương nhau có ngã bên trong, là nó có sự chiếm hữu. Cô là vợ của tôi, cô phải nghe theo tôi. Cô không nghe theo tôi là tôi giận. Con là của bố mẹ mà con không tuân theo bố mẹ là bố mẹ không chấp nhận, tức là nó có cái ngã bên trong, nó có điều kiện, ngã tức là cái đặt ra có điều kiện, và có điều kiện dẫn đến có sở hữu và có sở hữu thì có hạn chế, cho nên không thể gọi là vô lượng được. Bảo là đại từ đại bi thương chúng sinh, đại hỷ đại xả cứu hàm thứ thì nó và đạt đến chữ hỷ xả thì hỷ xả vô ngã mới hỷ xả. Tất cả những đại hung, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả của Đức Phật, căn bản là ở trên nền tảng vô ngã. Đạo Phật chỉ nhằm đến nói chỗ này thôi. Nếu chúng ta đạt được vô ngã thì chúng ta cũng sẽ quên được tất cả mọi sự khổ đau, chiến thắng, được tất cả mọi sự cám dỗ mà cũng vượt qua được tất cả mọi sự chướng ngại. Và nếu bất kể lúc nào chúng ta, lúc này chúng ta khởi niệm cứ khởi ngã lên, lập tức là có cái hàng rào chướng ngại ngay, làm chúng ta cản trở, làm cho chúng ta không có thể làm được. Mặc dù nàng có nghĩ một điều thiện nào đó muốn làm, nhưng khi khởi tâm làm ấy,  tâm đến nó không đủ để đại hùng đại lực mạnh, mãnh liệt thì lập tức bị ngã dụ hoặc. Ôi thời cũng làm được, không làm cũng được. Ví dụ như vậy, thế rồi mình làm thì chốc ăn bằng cái gì? Mình bây giờ mình bỏ tiền cho người khác, mình từ thiện cho người khác, chốc nữa mình sống bằng gì, bắt đầu là tranh đấu với cái ngã này. Cái ngã là cái tranh đấu để tồn tại, không xả được cái ngã này thì không đạt được Đại Hùng đại lực, không đạt được đại từ đại bi đại hỉ xả. Cho nên là chiến thắng tất cả vạn quân địch, không thể vẻ vang bằng chiến thắng của tự thân. Nói là những ông tướng có thể là bách chiến bách thắng, nhưng họ không chiến thắng nổi dục vọng. Họ không chiến thắng nổi sự cám dỗ của chính bản thân họ, và họ không chiến thắng được cái si mê, tăm tối luôn xúi giục cả trong tâm. Còn những người học theo Đức Phật, bản thân Đức Phật và chư vị Bồ Tát, những người mà có chiến thắng vĩ đại nhất chính là chiến thắng bản thân của họ. Chiến thắng được chính cái tham, sân, si trong tâm và cái chiến thắng ấy đạt đến chỗ rốt ráo thì gọi là vô thượng. Chúng ta học Phật chính là đi theo con đường này. Cho nên đã học lịch sử của Đức Phật là điều quan trọng. Không phải chúng ta nhớ các chi tiết về lịch sử. Từ cuộc đời của Đức Phật, chúng ta lấy đó làm tấm gương để chúng ta chiêm nghiệm, để chúng ta noi theo. Giống như ngoài xã hội, chúng ta lấy ai làm thần tượng chẳng hạn, khi chúng ta luôn luôn noi theo thần tượng đó và phải làm thế nào để mình phấn đấu đi theo thần tượng đó. Người học Phật, chúng ta là đệ tử Phật thì thần tượng duy nhất của chúng ta chính là Đức Phật – cao hơn hết, không còn ai thần tượng cao hơn cả.
Thần tượng ấy chúng ta phải hiểu rõ, để chúng ta luôn luôn suy nghĩ, để chúng ta học tập và dù cho chúng ta không học được nhiều. Nhưng mà mỗi một lần khi chúng ta gặp những chuyện gì với chúng ta, cứ chiêm nghiệm cuộc đời của Đức Phật thì lập tức là chúng ta có cái niềm hỷ lạc trong tâm. Chúng ta có niềm tin. Khi chúng ta có niềm tin thì chúng ta sẽ dần dần chúng ta vượt qua được những cám dỗ của bản thân, những suy nghĩ hẹp hòi, những ý nghĩ thấp kém, những chướng ngại… Chúng ta nản trí thì chúng ta sẽ nhìn tấm gương của Đức Phật làm cho chúng ta có sức mạnh, có cái ý chí, có sự phấn đấu. Đây chính cách tốt nhất để cho chúng ta học Phật có thể đạt được kết quả tốt nhất. Cầu chúc tất cả các quý thiện nam tín nữ chúng ta có niềm tin vào Đức Thế Tôn và học tập cuộc đời của Đức Phật để soi sáng cho chính bản thân mình.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

A Di Đà Phật

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (TỪ ĐẢN SINH ĐẾN THÀNH ĐẠO).

Giảng sư: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT Viện chủ chùa Đại Từ Ân.

Được Công chiếu trực tiếp 20 giờ tối chủ nhật 12/12/2021 Trên kênh YouTube , Facebook Chùa Đại Từ Ân.

Bài viêt liên quan
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 31
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 31
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 31 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 10 : BÁT QUAN TRAI GIỚI
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 10 : BÁT QUAN TRAI GIỚI
BÀI 10- BÁT QUAN TRAI GIỚI Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật!Hôm nay ch...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 6: SÁM HỐI ( Phần Tiếp Theo )
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 6: SÁM HỐI ( Phần Tiếp Theo )
BÀI 6- SÁM HỐI Trong Phật pháp có câu: "Hà nhân vô tội, hà giả vô khiên, tử túc động...
Được xem nhiều