LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 4: QUY Y TAM BẢO ( Phần Tiếp Theo )

Bài 4 – QUY Y TAM BẢO

Phần 1

Nay chúng ta tiếp tục bước vào ngày thứ tư nói về Quy y Tam Bảo. Quý vị mở trang số năm mươi bảy.

Kinh văn:

A. MỞ ĐỀ[A1] 

Cảnh giới Ta-bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của đau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận con người chúng ta.

Nhưng bản nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng. Vì một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong sinh tử, trôi nổi trong ba cõi sáu đường.

Vậy thì trong chúng ta, ai là người không muốn thoát ra khỏi cõi đen tối, sầu đau này, để được trở về nguồn trong sáng, an vui?

Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai sẽ là kẻ rủ lòng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?

Đấng cao cả sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai khác hơn là Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, người đã chứng quả bất sinh, bất diệt; và chỉ có giáo pháp của Ngài mới cứu được chúng sinh ra khỏi vô thường đau khổ.

Vậy thì chúng ta còn ngần ngại gì nữa mà chẳng chịu quy y Tam Bảo.

B. CHÁNH ĐỀ

I. ĐỊNH DANH VÀ GIẢI NGHĨA

1. Quy y nghĩa là gì?

Quy là trở về; Y là nương tựa, Quy Y là trở về nương tựa nơi mà mình đã vì si mê, phóng lãng đã lìa bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đã rời bỏ cha mẹ để ra đi hoang phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy Y nguyên dịch nghĩa chữ Nam Mô của Phạn ngữ. Quy Y cũng có nghĩa là kính vâng hay phục tùng.

2. Tam Bảo nghĩa là gì?

Tam Bảo là ba ngôi quý báu: Phật, Pháp, Tăng.

Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quý báu. Nhưng sự thật, vàng bạc và danh vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ, sống, già, bệnh, chết, mà lắm khi lại làm cho con người thêm khổ nữa! Còn Phật, Pháp, Tăng thì có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ nói trên. Bởi thế, người đời mới tôn sùng Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quý báu (Tam Bảo).

a) Phật: Chữ Phật do chữ Phạn Buddha phiên âm ra. Người Tàu dịch là Giác giả; người Pháp dịch là L’Illuminé. Ba chữ ấy đều cùng một nghĩa là: bực đã giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

b) Pháp: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phương pháp tu hành mà Phật đã phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba tạng kinh điển gọi chung là Pháp.

c) Tăng: Tăng hay Tăng-già là do chữ Phạn Sangha mà phiên âm ra; Tàu dịch là: hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ 4 người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách hòa thuận những gì đã thâu nhận được, từ vật chất cho đến tinh thần.

3. Quy y Tam Bảo là thế nào? Quy y Tam Bảo là trở về nương tựa ba ngôi quý báu: Phật, Pháp, Tăng.

Tại sao lại quy y Phật?

– Vì Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên mãn;

– Vì Phật là kẻ dẫn đường vĩ đại nhất, đã có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài vòng sinh tử để chứng đạo.

Tại sao quy y Pháp?

– Vì chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.

Tại sao lại quy y Tăng?

– Vì Tăng là người đã hy sinh gia đình, tiền của, danh vọng…để tình nguyện thay Phật dắt dẫn chúng sinh trên đường đạo.

Giảng giải chi tiết:

Mục đích học Phật thì điều đầu tiên phải xác định người có phải là Phật tử hay không, muốn trở thành đệ tử gọi là Phật tử hay không. Chúng ta thấy có rất nhiều người vì niềm tin hoặc vì tín ngưỡng, hoặc vì truyền thống mà họ đến Chùa lễ Phật. Những người có tín ngưỡng theo đạo Phật thì rất đông, nhưng mà những người trở thành đệ tử của Tam Bảo, gọi là Phật tử thì số này không có nhiều. Trong những số những người đã quy y Tam Bảo để trở thành thuần thành của Tam Bảo, thì số này là ít. Bởi vì phần lớn người ta đến Chùa lễ Phật, mà người ta coi Đức Phật và các vị Phật giống như là các vị thần, và người ta đến để làm cái gì?! – Cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, cầu siêu. Đức Phật đã từng khẳng định, ta chẳng là thượng đế để ban phúc giáng họa và ngay kể cả thượng đế cũng không có quyền để ban phúc giáng họa cho chúng sinh, ta chỉ là bằng thấy biết con đường và chỉ cho chúng sinh một con đường mà thôi. Ta cũng giống như thầy thuốc biết bệnh xử thuốc, đi hay không đấy là việc chúng sinh, uống thuốc thay không là việc chúng sinh, đấy không phải đổi với thầy thuốc và cũng không phải lỗi của người chỉ đường. Do vậy sau khi chúng ta biết được lịch sử Đức Phật, thì điều đầu tiên để chúng ta có thể trở thành đệ tử của Phật hay không thì phải xem chúng ta đã quy y Tam Bảo chưa. Ở đây quy y Tam Bảo để chúng ta hiểu rõ mục đích của việc quy y Tam Bảo là gì, làm thế nào để chúng ta có thể trở thành những người quy y Tam Bảo một cách đích thực, ở đây tôi nói đích thực là trên bản chất của nó chứ không phải là hình thức theo danh nghĩa của nó. Ở đây chúng ta có phải vào cái nội dung của cái phần bài này chính đề – định danh nội dung chính thì chúng ta vào thứ nhất là định danh là định nghĩa đấy, là giải nghĩa. Ở đây chữ định danh thế nào là quy y Tam Bảo. Chữ quy đã giải thích rồi, đây là chữ Hán. Chữ Phạn đọc là Nắng mồ, chúng ta phiên âm là Nam mô, cho nên chúng ta thường Nam Mô A Di Đà Phật, tức là quy y Đức Phật A Di Đà; Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tức là quy y Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chữ quy y chính là chữ Nam mô, nam mô dịch là quy y. Y chữ hán nó là quay trở về, y là nương tựa. Ở đây ví như là một cái người mà bỏ nhà ra đi, rồi đến một lúc nào đó họ chợt nhớ về quê hương, họ quay đầu trở lại, thì cái đó gọi là quy, và trở về để nương tựa với cha mẹ trở về để nương tựa với người than, trở về để nương tựa với xóm làng, cái đó cũng là nghĩa quy y. Trên thế gian này thì chúng ta đều có sự quy y, quy y là sự nương dựa, thế thì con cái dựa vào cha mẹ thì con cái đang là quy cha mẹ. Vợ nương tựa với người chồng chính là người vợ quy y với người chồng, cho nên là đám cưới ở thế gian người ta gọi là vu quy, tức là cái quy ấy cũng là quay trở về, trở về nhưng mà người ta nương tựa lẫn nhau, thế thì học sinh lớp phải nương tựa vào thầy giáo, nhân dân thì phải nương tựa vào quốc gia, cấp dưới thì nương tựa vào cấp trên , và tất cả người ta có tầng tầng lớp lớp những thứ quy y, không gì trong Phật pháp. Thế nhưng mà tất cả những cái thứ quy ấy ở ngoài thế gian, thì nó đều tạm bợ, nó không trường cửu, và rốt ráo của nó không thể đem lại hạnh phúc, cho nên mọi thứ quy y thế gian đều không bền chắc đều không vĩnh cửu và cái quan trọng là nó không đem lại được cái hạnh phúc đích thực. Có những người người ta quy y tiền, tức là người ta lấy tiền làm điểm tựa, lấy tiền làm lẽ sống, nhưng mà tiền cũng không đem lại hạnh phúc cho họ; có những người quy y quyền lực, tức là họ là kẻ cúi đầu làm lô lệ, cái đó cũng là một dạng quy y. Tài, sắc, danh, thực, thùy cái đó người đời đều lấy đó là một cái điểm tựa cho mình cả, những cái đó đem lại khổ đâu. Thế còn chúng ta ở đây quy y là quy y Tam Bảo, Tam Bảo là ba ngôi báu: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Cái gì gọi là báu, thế gian cho rằng là vàng, bạc rồi xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu gọi là bảy báu, nhưng mà báu là định nghĩa là cái gì là báu, hiếm là báu. Cái gì hiếm có, đấy là tiêu chuẩn. Thứ nhất là hiếm có. Thứ hai là có giá trị, những cái vật có giá trị thì nó trở thành của báu, những vật hiếm có gọi hy kỳ bảo giá, tức là những cái ấy mà hiếm có trên đời khó tìm kiếm được thì nó trở thành của báu. Nhưng mà của báu thế gian thì Đức Phật dậy nó sẽ bị năm đối tượng nó làm cho mất đi, và chúng ta mặc dù là sở hữu nó nhưng cũng không giữ được, một là nước cuốn trôi tức là bị lụt, mất thứ hai lửa cháy sẽ mất, thứ ba là trộm cướp, chúng ta thường nói thủy hỏa đạo đặc, nạn nước nạn lửa là trộm cướp, thứ tư là nhà nước tịch biên, những người mà làm ăn phi pháp mà bị nhà nước tịch thu cũng không giữ được, và một cái cuối cùng nữa Đức Phật nói là bốn cái yếu tố đó bên ngoài nhưng mà còn cái yếu tố bên trong đó là phá tán, hoặc chồng phá tán hoặc vợ phá tán hoặc con cái phá tán, nếu người chồng mà mà kiếm tiền mà người vợ phá thì cũng không giữ được, người vợ mà kiếm tiền người chồng phá không giữ, được bố mẹ kiếm tiền mà con cái không giữ được. Đức Phật gọi cái đó là giặc ở trong nhà, cho nên cái của báu ấy nó không đem lại hạnh phúc cho người ta, mà nhỡ khi sử dụng nó đấy tiền vàng bạc nó còn gây ra tai họa, cho nên nó không được gọi là bảo. Của báu thế gian ấy thì không được gọi là bảo, thì có Phật – Pháp – Tăng mới được gọi là bảo, đó là châu báu cho nên là trong kinh Phật có một bản kinh là Kinh Châu báu, chính là kinh nói về ba ngôi báu, Phật là châu báu của thời gian, Pháp là châu báu có thể gian, Tăng là châu báu của thế gian. Bởi vì nó hiếm có, nó cũng đạt tiêu chuẩn là của báu, nó là hiếm có, tức là Phật là vô lượng kiếp mới mới có xuất hiện trên thế gian này một lần, Pháp cũng vậy, Tăng chúng cũng vậy, vì hiếm có thứ hai nữa là nó có giá trị siêu việt cho nên là trong cái lời ca ngợi pháp Đức Phật nói là giá trị vượt thời gian và có tác dụng ngay trong hiện tại tác dụng ngay hiện tại, bất kể người nào sử dụng nó cũng đều đem lại lợi ích một cái ý nghĩa khác nữa của Tam Bảo nó vượt trội  với cái của báu của thế gian ấy, tức là dùng mà không hết, tiền vàng bạc của báu là chúng ta tiêu là hết, và cầm giữ nó là rất nguy hiểm, người nào mà đéo vàng đéo bạc đi ban đêm là nguy hiểm lắm, nhưng mà chúng ta mà đem Tam Bảo trong người thì không có gì nguy hiểm, về tiêu dùng không bao giờ hết, một người dùng một người lợi ích, một nhà dùng một nhà lợi ích, một gia dùng quốc gia lợi ích, mà toàn thế giới dùng thì toàn thế giới lợi ích, đời này kiếp khác dùng không bao giờ mất, đấy chính là cái cái ý nghĩa vượt trội so với của báu thời gian, cho nên là Phật Pháp Tăng nghĩa mới thật sự là của báu, nó là của báu của trời. Cho nên ở đây chúng ta có ba cái ngôi gọi là Phật, ở trong sách giải thích rõ rồi cũng xin nhắc lại Phật là tiếng Phạn là Buddha đấy, Việt Nam chúng ta tổ tiên chúng ta gọi Buddha là Bụt, chính là đọc phiên âm thẳng từ tiếng Phạn, chứ còn dùng chữ Phật là phiên âm từ chữ Hán, người trung quốc phiên âm chữ Buddha thành chữ Phật đà, và gọi tắt là Phật, Phật thị chữ Phật là gọi tắt của từ Phật đà, và chữ Buddha hay chữ Bụt hay là chữ Phật đà là nghĩa là người tỉnh thức, người giác ngộ, Buddha chúng ta còn dịch là bồ đề, bồ đề đấy là giác ngộ. Cho nên là bồ đề đạo tràng mà Đức Phật đã giác ngộ, nơi mà Đức Phật ngồi để giác ngộ gọi là bồ đề đạo tràng, cái tháp mà Đức Phật kỷ niệm Đức Phật giác của tháp đại giác, ngài là bậc tỉnh thức. Tỉnh thức cái gì – tỉnh thức chân lý của nhân sinh và vũ trụ. Cái này trong lịch sử Đức Phật đã nói là đêm mà Đức Phật thành đạo, chính là ngày tỉnh thức chỗ này. Ngài giác ngộ được cái chân lý này, cho nên gọi đó là Phật. Chữ pháp ở đây có hai nghĩa, pháp là chỉ cho vạn vật, chỉ cho sự hiện hữu, cho nên nó có tâm pháp, nó có sắc pháp là chỉ cho tất cả mọi thứ hiện hữu mà chúng ta có thể nhận biết được, ví dụ như một quyển sách là một pháp, một cái ấm là một pháp, một cái chén là một pháp, một con người là một pháp, trong con người chia ra mắt, tai, mũi, lưỡi thì mắt, tai, mũi, lưỡi cũng là pháp, nhưn trong mắt, tai, mũi, lưỡi đấy nó có cái phần kiến thức ở bên trong tâm thức cũng là pháp- chúng ta không phải quy cái pháp này nhé, phải phân biệt chữ pháp nó có hai nghĩa, pháp là chỉ cho các sự hiện hữu, cho nên trong kinh gọi đó là vạn pháp, vạn phát tức là tất cả mọi thứ hiện hữu trên cuộc đời này thì gọi là vạn pháp. Nó rất nhiều, nhiều vô kể không tính được, nhỏ như vi trần lớn như đại địa, như tam thiên đại thiên thế giới đều là pháp hết. Thế thì pháp ở đấy nói ở đây pháp là gì, là lời dạy của Đức Phật, thì đấy mới là cái chỗ mà chúng ta quy y, chứ không phải là quy pháp bởi vì vậy chữ pháp nó có cái nghĩa là vạn pháp, mà chúng ta quy y vạn pháp là không phải, chúng ta quy y là nương tượng vào lời dạy của Đức Phật, ở đây nghĩa thứ hai của chữ vạn pháp là: lời dạy của Đức Phật. Lời dạy của Đức Phật đi nó không phải là chân lý, nhưng nó chỉ dẫn con đường, nó giống như cái bản đồ ấy, bản đồ chỉ đường, ví dụ như chúng ta đi đến ngã ba ngã tư đường chúng ta thấy có một cái biển chỉ đường, thì đấy chính là một pháp, mà chúng ta nương tựa vào cái cái sự chỉ đường ấy, nhưng mà chúng ta phải đi chúng ta mới tới đích. Quy y pháp là nương tựa vào giáo pháp mà đức Phật chỉ dạy, và giáo pháp gồm toàn bộ những cái điều mà Đức Phật đã giảng dạy trong bốn mươi chín năm. Tăng là đoàn thể đệ tử của Phật, xuất gia chân chính đi theo cái con đường giải thoát giác ngộ mà Đức Phật đã chỉ dạy, rồi chư tăng là thực hiện cái nhiệm vụ, là đem giáo pháp của Đức Phật để truyền bá giảng dạy và hướng dẫn chúng sinh tu học. Đấy mới là cái đối tượng mà để chúng ta quy y. Ở đây tăng là đoàn thể chứ không chỉ cho một cá nhân nào cả, một người không phải là tăng, trong luật nói là phải từ bốn người trở lên sống thanh tịnh hòa hợp như pháp thì mới thành tăng, dù có bốn người sống với nhau nhưng không thanh tịnh không hòa hợp không như pháp vẫn không thành tăng được. Dù cho cả vạn người xuất gia sống với nhau nhưng không đảm bảo tinh thần đoàn kết hòa hợp thanh tịnh vẫn không thành tăng. Tăng phải là một đoàn thể sống hòa hợp thanh tịnh như pháp, và tăng bảo ấy mới đủ khả năng để làm cái cái nhiệm vụ truyền thừa giáo pháp của Đức Phật và tự bản thân các vị tăng ấy là đi trên con đường và chỉ dẫn, tức là họ đang đi trên con đường là cầu đạo và giác ngộ. Trong đó có những vị đã giác ngộ, cũng có những vị đang đi, cho nên gọi là quả và hướng, nhưng những vị ấy là gì hy sinh cho cái lý tưởng cao cả và phải thực hiện cái nhiệm vụ là duy trì giáo pháp tại thế gian, bằng cách là tự mình tu chứng và đem giáo pháp đó để hóa độ chúng sinh, thì đó mới là đúng nghĩa là tăng bảo, đó mới là cái nơi mà để chúng ta quy y. Quy y Phật Pháp Tăng chính là chỗ này.  Quy y Phật thì chúng ta biết rồi, bởi vì Phật là bậc trí tuệ từ bi trọn vẹn, Ngài đã là cái người đã giác ngộ ra cái con đường giải thoát sinh tử luân hồi, và chỉ dạy giáo pháp và hướng dẫn mọi người. Tăng bảo là những người mà nguyện đi theo con đường của Đức Phật, thực hiện sứ mệnh cao cả là thượng cầu Phật đạo hóa chúng sinh, đó chính là cái chỗ mà Phật tử chúng ta phải quy y.

Chúng ta sang cái phần thứ hai nói đến ba bậc Tam Bảo.

Kinh văn:

II. BA BỰC TAM BẢO

Tam Bảo có ba bực:

– Đồng thể Tam Bảo.

– Xuất thế gian Tam Bảo.

– Thế gian trụ trì Tam Bảo.

1. ĐỒNG THỂ TAM BẢO

a) Đồng thể Phật bảo, tức là nói tất cả chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt.

b) Đồng thể Pháp bảo, tức là nói tất cả chúng sinh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi, bình đẳng.

c) Đồng thể Tăng bảo, tức là nói tất cả chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh thanh tịnh; sự, lý hòa hợp.

2. XUẤT THẾ GIAN TAM BẢO

Xuất thế gian Tam Bảo:

a) Xuất thế gian Phật bảo, là chỉ cho đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, đức A-Di-Đà, chư Phật trong mười phương ba đời, đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.

b) Xuất thế gian Pháp bảo, là chỉ cho chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sinh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v…

c) Xuất thế gian Tăng bảo, là chỉ cho các vị thánh Tăng đã thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức Quan-Thế-Âm, Đại-Thế-Chí, Văn-Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v…

3. THẾ GIAN TRỤ TRÌ TAM BẢO

a) Thế gian trụ trì Phật bảo, là chỉ cho xá lợi của Phật, tượng Phật đúc bằng kim khí chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.

b) Thế gian trụ trì Pháp bảo, là chỉ cho ba tạng giáo điển: Kinh, Luật, Luận, viết hay in trên giấy, trên vải, trên lá buông v.v…

c) Thế gian trụ trì Tăng bảo, là chỉ các vị Tỳ kheo tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại.

Giảng giải chi tiết:

Ba bậc Tam Bảo, đây chính là phân loại Tam Bảo. Tam Bảo có ba loại, chứ thực ra cũng không phải là ba bậc, ở đây là ba loại, là phân giao theo nguyên tắc này, chúng ta học Phật, thì đối với một vấn đề thì bao giờ trong luật pháp cũng sẽ nghiên cứu trên ba phương diện. Phương diện thứ nhất là phương diện thể tính, là bản chất của nó là cái gì. Ví dụ như là tôi nói cái ấm này, cái cốc này, thì trước hết chúng ta muốn nghiên cứu cái cốc này là phải xem là cái thể chất nó làm bằng cái gì, nó làm bằng sứ hay làm bằng nhựa, hay làm bằng đồng, tức là cái chất liệu làm lên nó là cái gì, đấy gọi là thể. Thế thì đối với Tam Bảo thì cái đầu tiên là chúng ta nghiên cứu thể của tam đảo, đấy tức là bản chất của Tam Bảo là gì. Thứ hai là tướng- là hình tướng của nó, khi mà nhìn cái người ta gọi đây là cái cốc, người ta không gọi nó là cái chén được, để nó phân biệt nói với cái khác về mặt hình tướng. Giống như là con người ta là bản chất nó là tứ đại và năm uẩn chẳng hạn, nhưng mà mỗi người có một cái tướng khác nhau, nhìn cái người này nó khác với người kia, đấy là cái tướng biểu hiện ra ngoài. Thứ ba nữa là tác dụng, xét về mặt dụng của nó, thế thì tác dụng của cái cốc này là để đựng nước và để uống. Mỗi thứ nó có một tác dụng riêng, bất kể một cái pháp nào, bất kể cái gì đấy hiện hữu của chúng ta nhận biết được, bằng tâm biết được bằng sáu quan năng, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thì đều là Pháp cả. Mỗi một pháp ấy, nó đều có ba khía cạnh: thể, tướng và dụng, nguyên tắc là như vậy. Để nói rõ cái này thì tại sao lại chúng ta lại nghiên cứu Tam Bảo trên ba phương diện gọi là ba bậc đấy, bậc đầu tiên gọi là đồng thể Tam Bảo, chúng ta nghiên cứu mặt thể tính của nó, thể tướng của Tam Bảo, bản chất của Tam Bảo là gì? Phật là gì, tự tính của Phật ấy là giác, cho nên tự tính của Phật bảo là tính giác. Quy y Phật chính là quy y tự tính giác này, và chúng ta phải tìm hiểu cái tự tính giác ấy, cho nên tự tính giác ấy là tự tính mà chúng sinh vốn có. Cho nên Đức Phật nói ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Bản chất chúng ta con người phàm phu, dù chúng ta đang ở cõi người hay trong địa ngục thì cái tự tính giác này vẫn có, cho nên trong kinh mới nói: Ở thánh không tăng ở phàm không giảm, bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh. Đối với chúng ta, nó giống như là quặng vàng, tức là nó có tính chất vàng nhưng mà nó vẫn ở dạng quặng, nghĩa là chưa tinh luyện. Còn Phật mà đã thành là vàng đã được tinh luyện rồi, tức là nó đã bỏ hết tạp chất rồi. Nhưng mà dù chúng ta ở trong thể dạng tạp chất đi chăng nữa, thì cái thể tính vàng ở trong quặng, với thể tính vàng nguyên chất là giống nhau. Ở đây chính là gọi là tự tính. Nói đến tự tính Tam Bảo này là để cho chúng ta biết rằng là tại sao tự quy y, tức là chúng ta tự trở về, tại sao nói Đức Phật nói hãy lấy mình làm hòn đảo, tự soi sáng cho mình, thì chúng ta phải quay trở về với cái tự tính mình, cho nên học Phật là học từ tự tính này, quay trở về với tự tính này, tìm Phật ở đâu tìm Phật trong tự tính này, chứ không phải là tìm Phật ở bên ngoài. Nếu không rõ chỗ này nên là khi mà chúng ta cứ lễ Phật rồi chúng ta cứ hướng vào các pho tượng này khác chúng ta cầu nguyện thì chúng ta đang đang đi sai chữ quy y. Quy y là phải trở về với tự tính thôi, mà tự tính giác là chúng ta có tự tính vốn có, chứ không phải là cái bên ngoài. Phật chỉ là người chỉ cho chúng ta cái vốn có này thôi, ngài cũng từ cái chính bản thân của Ngài, Ngài kinh nghiệm và ngày tìm được tự tính ấy, và Ngài nhắc chúng ta không phải dựa vào Ngài, mà phải dựa vào tự tính vốn có, cái đó chính là đồng thể Phật bảo. Chỗ này nhiều người học Phật là không rõ chỗ này, kể cả xuất gia, tại gia chúng ta cũng gọi là tìm Phật bên ngoài là tà đạo. Cho nên là trong kinh Kim cương nói, nhược dĩ sắc kiến ngã dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo vẫn năng kiến như lai. Nếu dùng sắc tướng mà để thấy được ta, tức là dùng hình tượng của Phật để mà cầu Phật, dùng ghe âm thanh Phật thuyết pháp mà cho rằng đấy là thấy Phật, đấy người đó là đang chạy theo tà đạo, tức là bên ngoài tìm Phật. Cái đầu tiên là tự tính Phật Bảo, tức là tự tính giác. Tự tính pháp bảo, pháp là gì, pháp là chính pháp. Cho nên là bát chính đạo là gì, chính kiến, chính tư duy, cái gì phải chính hết, thế thì chúng ta bỏ tà về chính, chính là tự tính này. Tự tính thanh tịnh, tự tính chân chính là chúng ta vốn có, con người nào cũng có cái tính cái cái chân chính này hết, nó sẵn có rồi, nhưng mà chỉ vì chúng ta bị cái tham cái sân cái si nó bẻ cong cái chính đó đã thành tà. Thế bây giờ chúng ta phải quay trở lại tìm cái chân chính cho mình, bỏ tà về với chính đấy là tự tính Pháp. Cái tự tính tăng là gì, tăng là thanh tịnh. Cho nên chúng ta tự tính thanh tịnh là vốn có, nước nó vốn có tự tính thanh tịnh, nhưng mà chỉ vì là chúng ta để bùn nhơ nó cấu vào thì nó thành nước đục, chúng ta cứ lọc được hết cái đục đi thì nước nó sẽ trở thành trong nguyên như cũ, bởi vì tất cả các loại nguồn nước nào, dòng nước nào dù ô nhiễm đến đâu thì cái tự tính của nước nó vẫn vốn ở trong, nước nào cũng có thể làm trong được hết làm sạch được hết, có cái là chúng ta mà để nó nhiễm lâu thì chúng ta làm nó mất nhiều công thôi, chứ còn tự tính của nó là nước là là trong sạch. Tăng tự tính là thanh tịnh. Nói đến đồng thể của Phật là giác, đồng để của pháp là chính, đồng thể của tăng là tịnh. Nhưng mà giác chánh tịnh này nó là ba cái khía cạnh của cùng một bản chất thôi, nó sinh ra từ đâu, sinh ra từ tâm, vì thế chúng ta gọi là Phật tâm, gọi là Phật tính, gọi là chân như, gọi là thực tướng, thì tất cả những cái này nó tuy ba là một, cho nên là Phật Pháp Tăng nó là ba cái khía cạnh khác nhau trong một cái tự tính mà thôi, cái tự tính này là chúng ta gọi là cái bản lai diện mục. Trong Phật pháp người tu thiền gọi là bản lai diện mục, gọi là chân như tự tính, gọi cái danh khác nhau thôi, nhưng mà bản chất là một, cái đó là gì- là tâm, không có gì khác cả. Tu trong Phật phát là cái tu cái tâm này, trở về một cái tâm. Trong cái mở đầu tiên của kinh thánh, nói một cái điều rằng là thượng đế là người sáng tạo ra thế giới, sáng tạo ra nhân loại. Nhưng mà mở đầu trong kinh của chúng ta là cái câu gì, như thị. Như thị là gì, chân như vốn là như vậy, thật tướng vốn là như thế, mà thật tượng ấy là cái gì, trong kinh pháp cú nói là ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo. Tức là các quan điểm của các tôn giáo khác cho rằng là vạn vật là do một người quyền năng tạo ra, và người ta phải nương tựa vào cái đấng tối thượng ấy, đấng quyền năng ấy để mà cầu xin được hạnh phúc. Nhưng Phật dạy tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ tâm tạo, nếu về tâm nhiễm ô thì đau khổ sẽ bước theo sau. Nếu cái tâm thanh tịnh thì an lạc sẽ theo sau. Cho nên hạnh phúc hay là khổ đau hoàn toàn là do cái tâm này, nói cái bản thể của Tam Bảo chính là nói đến cái tâm này mà thôi, không có gì khác cả, đây chính là đồng thể của Tam Bảo. Từ đồng thể của Tam Bảo thì nó mới xuất ra cái tướng của Tam Bảo, tướng của Tam Bảo thì ở đây nó là xuất thế gian Tam Bảo đấ. Xuất thế gian Tam Bảo chỉ cho Tam Bảo xuất thế, Tam Bảo xuất thế tức Tam Bảo đạt đến sự siêu việt, gọi là xuất thế tức là vượt ra khỏi thế gian gọi là xuất thế gian, thế còn ở trong phạm vi thế gian thì nó là thế gian. Ở đây, có Xuất thế gian Tam Bảo, với cả Thế gian trụ trì Tam Bảo. Thế là gì, thế là đời, gian là không gian, thế là thời gian và không gian nó chính là vũ trụ, và xuất thế gian tức là vượt ra khỏi gì phạm vi của vũ trụ, đó chính là xuất thế gian. Ở đây xuất thế gian là chỉ cho Phật quả, Phật là chỉ cho các Đức Phật đã chứng quả, bởi vì bản thân chúng ta cũng có Phật, cho nên chúng ta là Phật chưa thành cho nên không thể gọi chúng gọi chúng ta là Phật được, và chúng ta là Phật ở thế gian, chứ không phải là Phật xuất thế gian. Các vị Phật mà đã chứng quả rồi thì mới là Phật xuất thế gian. Đấy gọi là xuất thời gian Phật bảo. Như Đức Phật thích ca, Đức Phật di đà phải không. Xuất thế gian pháp bảo- trong tâm chúng ta có tự tính chân chính, nhưng mà cái cái đó mà giáo pháp do Đức Phật thật chứng ấy, đã giảng dạy trong kinh pháp như là tứ đế, thập nhị nhân duyên chẳng hạn, lục độ cái đó là xuất thời gian pháp bảo, xuất thế gian tăng bảo là chỉ cho các vị tăng tu hành đã chứng quả từ sơ quả cho đến tứ quả, tức là đã chứng tỏ bậc thánh.Thánh tăng thì gọi là xuất thế gian, bởi vì các vị ấy đã đã vượt khỏi các pháp thời gian rồi, không còn bị cái quy luật của thời gian nó chi phối nữa, thì đấy là xuất thế gian. Đấy là là tướng của Tam Bảo.

Dụng của Tam Bảo thì ngày nay là tác dụng của tảm bảo, nó là tác dụng là thời gian trụ trì. Thế gian trụ trì thì Phật đã nhập diệt rồi cho nên thời gian mà Phật trụ trì ở thời gian hiện nay chính là hình tượng của Phật, cho nên mới gọi là Phật bảo là tượng Phật. Tượng Phật thì làm bằng các cái loại chất liệu khác nhau quý như là và ngọc phải không, bằng đất bằng đá bằng xi măng bây giờ bằng nhựa bằng com pô sít rồi cho đến là bằng tranh vẽ rồi bây giờ người ta còn chiếu bằng màn hình. Tất cả nếu mang biểu tượng của Đức Phật thì đều thuộc về thế gian Phật bảo. Bởi vì là tại sao nó thế gian, thế gian là nó sẽ sẽ bị quy luật của thế gian chi phối, xuất thế gian là quy luật thế gian không chi phối được, thế gian nó chi phối thì nó chỉ mang biểu tượng thôi, ví dụ như hình tượng Phật đấy là hình tượng Phật chứ không phải là Đức Phật. Chúng ta đừng nghĩ rằng là các hình tượng Phật mà chúng ta tôn thờ đấy là Đức Phật. Thế nếu hiểu như thế là nhầm lẫn, mà nó chỉ mang tính chất biểu tượng, hình tượng Phật. Nếu mà chúng ta lại cứ tôn thờ cái tượng Phật như thế mà cho đó là Phật, thì chúng ta các tôn giáo và các ngoại đạo khác người ta chỉ trích chúng ta đấy là tôn thờ ngẫu tượng. Nếu tôn thờ ngẫu tượng như thế là đang rơi vào tà kiến, chúng ta mượn cái hình tượng của Phật bên ngoài tức là tranh vẽ tượng Phật để nhắc nhở cái tự tính thật bên trong, như thế thì đúng. Còn chúng ta lại tôn thờ các cái pho tượng ấy trở thành các bậc thần linh để mà ban phúc giáng họa thì thành tà đạo. Cái này là chúng ta bây giờ là chúng ta đang nhầm lẫn cái chỗ này, bởi vì nó là thế gian Phật bảo. Thế gia là nó bị cái quy luật gì, thành trụ hoại không, Phật làm sao mà thành trụ hoại không được, hôm nay nó còn mai nó mất mà, Phật là không có thành trụ hoại không, thế gian thì thành trụ hoại không, cho nên nó mới là thế gian Phật bảo. Nó chỉ mang tính biểu tượng cho nên chúng ta gọi là tượng trưng, đấy là hình ảnh tượng trưng, cho nên vì tượng trưng cho nên là là tùy theo cái tâm người làm, tùy theo cái cảnh mà chúng ta tưởng ra thế nào thì chúng ta bắt tượng Phật như thế, thực chất là Phật không không có hình tướng, phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Trong kinh nói là – Phàm cái gì có hình tướng cái đó là giả, cái đó không phải là thật, cho nên người Việt Nam làm tượng theo phong cách của người Việt Nam, tượng thời Lê, thời Trần, thời Lý có khác nhau, bây giờ thì lại khác nữa. Người Trung Quốc làm tượng theo văn hóa của người Trung Quốc, người Nhật làm theo văn hóa của người Nhật, làm sao mà bảo đây là Phật, bên kia không phải là Phật được, không có tiêu chuẩn. Thế rồi Ấn Độ làm theo Ân Độ, Lào, Campuchia người ta làm theo cái phong cách văn hóa của người ta, và cái đó là do cái tưởng tri tức là con người ta tự tưởng tượng ra, để mà tạo nên cái hình tượng, vì Phật không có hình tướng thì người ta không tiếp cận được, không nhìn được thì người ta không khởi được niềm tin, không khởi được cung kính, thì phải dùng cái phương tiện, cho nên Phật nhập niết bàn tới mấy trăm năm sau, về mặt lịch sử đấy mới có tượng Phật. Đấy gọi là thế gian Phật bảo.

Còn thế gian Pháp bảo là ghi chép lại những lời Đức Phật dạy, trên các hình thức khác nhau, ngày xưa thì bảo là ghi vào lụa và trẻ tre, rồi lá buông lá bối, rồi giấy gió khắc ván, thì bây giờ thì là chúng ta còn nhiều phương tiện nữa, bây giờ dụ như là kinh sách được ghi âm rồi trên mạng trên miếc thì nó đều là thời gian phát bảo hết, thì cái gì mà ghi đúng lời Phật để truyền bá thì cái đó thuộc về pháp bảo.

Và thứ ba nữa là Tăng bảo, thế gian trụ chỉ tăng bảo là chỉ cho những người xuất gia như chúng tôi  hiện nay ở trên khắp thế giới, đều là tăng bảo hết, nó nằm trong một chữ tăng bảo đấy thôi chứ không phải chỉ cho một cá nhân người nào cả, vì cái cộng đồng với những người xuất gia hiện nay là phàm thánh đồng cư, long xà vẫn hỗn tạp, thuộc thế gian cho nên không phải hoàn toàn các bậc thánh nhân, thánh nhân là xuất thế gian,  nếu chỉ ở trong địa vị phàm phu thì đó là thế gian tăng bảo, còn các vị đã tu chứng thì các vị đã vượt ra khỏi thế gian tăng bảo rồi, đã trở thành xuất thế gian rồi, hiện nay vẫn có những người tu chứng nhưng mà chúng ta không biết, vẫn có các bậc thánh nhân nhưng mà phàm phu chúng ta không biết, đấy là cái con đường tu hành mà giác ngộ của các vị ấy, nhưng ở đây chúng ta nói tăng bảo là phải chỉ cho các vị xuất gia tu hành chân chính, chí ít là phải có cái đạo hạnh của người xuất gia đáng làm tiêu biểu để cho người tại gia nương vào để tu học thì đấy chúng ta gọi là thế gian tăng bảo cho nên, ở đây ý nói đến Tam Bảo là chia ra làm có ba cái khía cạnh để xem xét. Một là xem xét về mặt thể phải không, thứ hai nữa là xem xét về mặt tướng, tướng tức là xuất thế gian ấy, và thứ ba nữa dụng, dụng chính là tác dụng của Tam Bảo. Hiện nay, tượng Phật có tác dụng cho người ta nhìn thấy khởi tâm tôn kính, kinh sách này có tác dụng để cho chúng ta đọc và tiếp cận, tăng thì có tác dụng là để cho chúng ta có cái chỗ để hướng dẫn và tụ học, đấy là dụng của Tam Bảo.

Chúng ta sang cái nói về đến cái sự quy y Tam Bảo.

Kinh văn:

III. SỰ QUY Y TAM BẢO

Sau khi đã hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy. Thực hành Tam Quy bằng sự tướng cung kính, vâng theo Tam Bảo, như thế gọi là sự quy y Tam Bảo.

1. Sự quy y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Ngài, chiêm ngưỡng tượng Ngài, chí tâm thật ý lễ bái để tỏ lòng sùng kính Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy y Phật.

2. Sự quy y Pháp: Hằng ngày tụng đọc kinh, luật, luận trên giấy trắng mực đen; sớm hôm hai thời công phu, tìm hiểu nghĩa lý thâm huyền của Pháp bảo càng tốt, không biết nghĩa tụng suông, cũng không phải là vô ích. Khi tụng đọc kinh điển, tâm trí chúng ta không nghĩ đến những ý nghĩ xằng bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.

3. Sự quy y Tăng: Thế gian thường nói: “Trọng Phật, phải kỉnh Tăng”. Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu thì chúng ta phải thật dạ kỉnh Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy y Tăng, hễ thấy người đầu tròn áo vuông, có chân chính tu hành, giữ gìn giới luật, thì liền kính nể, quý trọng xem như đó là vị đại diện của đức Phật. Làm như thế là sự quy y Tăng.

Tóm lại, thờ Phật cốt, Phật tượng, tụng kinh, giữ giới nghiên cứu Phật pháp, kính trọng Tăng già chân chính, đó chính là sự quy y Tam Bảo, hay nói nôm na là theo đạo Phật.

Giảng giải chi tiết:

Nói đến quy Tam Bảo thì nó có xét trên hai cái khía cạnh, một là sự quy y, hai là lý quy y. Trước hết thì chúng ta phải dùng sự để đạt đến lý, trong Phật pháp thì nói đến nghiên cứu một vấn đề thì như đã nói ở trên, thể tướng và dụng. Nhưng mà xét một sự việc ấy, thì bao giờ phải xét trên hai vấn đề sự và lý. Từ cái sự để chúng ta đi vào lý, và từ lý để chúng ta làm rõ cái sự, và làm thế nào để sự lý hợp nhất, đó là sự lý nó phải thống nhất với nhau. Chứ sự mà đằng lý mà đằng là không được, ở thế gian cũng vậy thôi, mà Phật pháp thì càng coi trọng cái này, cho nên chúng ta gọi đó là hành giải tương ứng, sự lý viên dung. Trong Phật pháp gọi là sự lý phải viên dung, từ sự thì để chúng ta thâm nhập vào lý, và từ lý thì chúng ta hiểu rõ về cái mặt sự, vậy thì sự quy Tam Bảo nó là thế nào, quy y về mặt sự. Là chúng ta phải sự quy Phật, sự quy y pháp và sự quy y tăng. Sự quy Phật là hàng ngày chúng ta phải chiêm ngưỡng tôn tượng của Đức Phật, tức là mượn hình tướng của Phật ở bên ngoài, thế nên nói rằng người Phật tử bất kể ở chỗ nào mà nhìn thấy hình tượng của Phật, đều phải khởi tâm cung kính tôn trọng giống như Phật ở trước mặt vậy, thấy Phật là phải lễ, nhìn thấy Phật là phải chắp tay vái chào, đấy chính là biểu thực sự quy y. Luôn luôn là tưởng nhớ đến Phật, nếu những chỗ mà không có không nhìn thấy hình tượng của Phật, thì chúng ta luôn luôn khởi tâm ấy để hướng về Đức Phật, cái đó gọi là niệm Phật. Trong sáu pháp tu hành mà Đức Phật chỉ dạy, đó niệm Phật, niệm pháp, niệm tang, niệm giới, niệm thiện và niệm vô thường. Thì chúng ta chọn bất kỳ một cái phương pháp nào để quán niệm, niệm ở đây là là ghi nhớ, ức niệm, tưởng nhớ. Cho nên, là một người Phật tử mà quy y Phật thì phải luôn luôn tưởng nhớ đến Phật, nhìn thấy tôn tượng của Phật thì khởi tâm là cung kính, cúi đầu. Trong kinh Pháp hoa nói là chí ít là phải chắp tay, chí ít là phải cúi đầu. Nếu mà chúng ta trong cái lúc mà không thể tác lễ được, có điều kiện là phải tác lễ năm vóc đầu thành sát đất để lễ Phật, còn nếu không tác lễ được thì trong tâm phải khởi cung kính chắp tay cúi đầu, biểu thị cái sự quy phục, cái chữ quy y là nam mô là kính, chữ nam mô còn có nghĩa là kính lễ, quy y chính là kính lễ. Khi mà chúng ta lễ Phật là biểu hiện cái sự quy phục đó là lễ Phật ngũ thể đầu địa, năm vóc sát đất. Đầu, hai khuỷu tay, hai đầu gối, năm cái điểm ấy phải tiếp xúc đến đất, và trong trong cái lời tán thán lễ Phật nói đầu diện tiếp tục quy mệnh lễ. Thời Đức Phật những tín đồ mà biểu hiện cái sự quy phục của Đức Phật, là khi mà lễ xuống thì năm vóc sát đất rồi, hai bàn tay để ngửa lên, và nâng cái bàn chân của Đức Phật lên, rồi mặt chúng ta hôn lên trên bàn chân của Phật. Cái đó phải đầu diện tiếp túc, đầu và mặt của chúng ta phải tiếp xúc với bàn chân của Phật, biểu thị cái sự quy phục. Tại sao lại nói như vậy, cái chân là cái dơ nhất, mà cái thấp nhất của con người, chúng ta gọi là phục ai là phục sát đất, người mà đáng để cho chúng ta phục sát đất chỉ có Phật, chỉ có pháp, chỉ có các bậc thánh tăng. Cho nên những người đó để chúng ta kính phục sát đất, cho nên đầu mặt của chúng ta là đầu chúng ta là cái nơi mà cao quý nhất ở trên đầu con người phải không, nhưng mà phủ phục xuống dưới chân của Đức Phật là biểu thị cái sự quy phục. Đấy là sự quy y Phật. Thế rồi sự quy y pháp là chúng ta là nương tựa vào pháp, tức là chúng ta phải thường xuyên nghe giáo Pháp của Đức Phật, cho nên bây giờ là có phương tiện để chúng ta nghe pháp thường xuyên, hoặc nghe giảng như thế này, hoặc là nghe trên đài, hoặc như trên băng đĩa. hưng mà một cái công việc khác nữa ngoài cái chuyện nghe là phải tự đọc tụng, cho nên là nhiều khi chúng ta bỏ mất cái văn hóa đọc, đọc nó khác với nghe, khi mà chúng ta đọc nó tiếp tiếp cận với giáo pháp nó sẽ sâu sắc hơn cái chuyện này chúng ta nghe, nhưng mà cái chuyện đó là phải lặp đi lặp lại thường xuyên nghe Pháp, hàng ngày nghe pháp, thời thời nghe pháp, cho nên cái đó chính là thời thời quy Phật, thời thời quy y Pháp. Nghe pháp lúc nào là chúng ta quy pháp như bấy giờ, khởi cái tâm cung kính với pháp, tôn trọng cái giáo Phát của Phật. Cho nên đối với kinh điển giáo Pháp, sách vở này khác các thứ là để lòng tôn trọng. Trong kinh nói là phép tắc của người Phật tử t ại gia đấy, dùng tay sạch để vào kinh, khi mà dở đọc phải súc miệng này khác, đấy là biểu thị sự tôn kính, sự tôn trọng giáo pháp. Không để rách không để bẩn…  cái đó là biểu thị cái sự quy y. Còn đối với sự quy tăng là chúng ta, chư tổ cứ nói rồi, học một thầy kính muôn thầy. Bất kể những người nào là xuất gia, đệ tử chân chính của Đức Phật đều là thầy của chúng ta hết. Chúng ta Phật tử tại gia thì họ đều là thầy, đừng có nghĩ rằng là tôi chỉ quy y với vị thầy này, tôi học với thầy này thì vị ấy là thầy tôi thôi, còn những người khác không phải. Nếu mà chúng ta dùng cái tâm ấy là trái với lời Phật dạy. Tất cả chư tăng xuất gia trên thế gian này, không kể người nước nào, đều là thầy của chúng ta tất. Và chúng ta phải tôn trọng bình đẳng các vị, bởi vì không biết ai là phàm, không biết ai là thánh đâu. Nói thật là như vậy, chỉ có tự tâm các vị tu chứng các vị mới có thể biết được thôi, chứ còn chúng ta là người bình thường không biết ai là phàm là thánh, nếu không cẩn thận thì người mà phàm phu ra vẻ đạo mạo chúng ta lại hết sức cung kính, rồi các bậc thánh người ta lại thị hiện cái tướng thế này thế kia mà chúng ta bất cẩn, chúng ta lại bất kính với các vị ấy , thì trở thành có tội lỗi, cho nên là đã học Phật ấy là phải kính tăng, bất kể những các vị tăng ni nào xuất gia đệ tử Phật chân chính. Dù phàm, dù thánh dù thế này, thế khác, dù cho họ có lỗi với Phật, dù cho họ có phạm giới đi chăng nữa, Đức Phật nói chúng ta vẫn phải tôn trọng. Thời Đức Phật đã xảy ra cái câu chuyện là có những các vị người tại gia đấy, đã chứng lên tam thánh quả. Ví dụ như là trưởng giả Cấp Cô Độc ấy chẳng hạn, các vị ấy là đều chứng thánh quả, nhưng mà đối với phạm phu tăng một vị vừa mới xuất gia, thì các vị thánh của thế gian vẫn phải lễ dưới chân, đó là một nguyên tắc. Không thể cho rằng là bởi vì các vị xuất gia với các vị tại gia là hoàn toàn địa vị khác nhau. Trong đệ tử của Phật là quy định thành bảy chúng, chúng ta có thứ lớp, mặc dù là về mặt thể tính là bình đẳng, nhưng mà về mặt thứ tự trật tự đầu tiên là tỳ khiêu, thứ hai xếp thứ hai là tỳ khiêu ni, thứ ba là thức xoa ma na, thứ tư là sa di, và thứ năm là sa di ni, và thứ sáu là ưu bà tắc và thứ bảy mới là ưu bà di. Đây là trật tự, cho nên là đấy là cái cái quy định, đạo là tôn ti, mà đạo là có trật tự, đấy là một trật tự. Cho nên là dù các vị ở tại gia có chứng thánh quả đi chăng nữa, thì đối với người xuất gia vẫn phải kính trọng, vẫn phải đảnh lễ, dù cho các vị ni đã chứng quả A la hán, vẫn phải kính lễ vị tỳ khiêu phàm phu tăng mới xuất gia. Và đây là điều Đức Phật quy định. Cho nên, trong mười hạnh của Bồ tát Phổ hiền, cái hạnh khó nhất đầu tiên là nhất giả lễ kính chư Phật. Thứ nhất là lễ kính chư Phật, lễ kính không phải là Phật đã thành rồi thì lễ kính dễ, nhưng phải lễ kính Phật chưa thành. Thế là trong kinh Pháp hoa mới đưa cái hình ảnh của Bồ tát thường bất khinh đấy, tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ tương lai sẽ thành Phật. Cho nên là phải tôn trọng hết, Ngài Ấn Quang mới có lời căn cứ trên lời Phật, ngài nói cái lời nhắc nhở một câu- phải coi tất cả mọi người là bồ tát, còn chỉ có mình là phàm phu thôi, như vậy thì đúng, đấy là thái độ tôn trọng, cái đó là quy y về mặt sự. Đối với mặt sự thì chúng ta thông qua cái sự ấy, để chúng ta thức tỉnh cái cái lý ở bên trong, tiếp cận Phật pháp từ mặt sự tướng, Tam Bảo về mặt sự tướng, tức là Phật là thông qua các hình tượng Phật. Đấy là thuộc về mặt sự, pháp là thông qua kinh điển giáo pháp và nghe pháp tăng là thông qua các vị xuất gia phàm phu tăng. Từ cái sự ấy để chúng ta trở về cái lý quy y Tam Bảo. Chúng ta sang cái phần thứ tư là lý quy y. Ở đây nói đến trên đến sự, là chúng ta phải nương vào sự để hiểu được cái lý ở bên trong, nương vào sự bên ngoài để thấy rõ cái lý bên trong. Ở đây nói lý là nói đến cái tự tính vốn có, ở trên nó thể tướng của Tam Bảo đấy, chính là cái lý này, lý là bên trong. Quy y Tam Bảo là chúng ta trở về cái tự tính vốn có của mình, lý quy Phật tức là tự quy Phật, chúng ta trở về với Phật tính vốn có, trong tất cả mọi chúng sinh chúng ta thì Phật tính là vốn có, nếu nó không có vốn có thì không thể tu hành mà thành Phật được, cho nên Đức Phật nói là tất cả chúng sinh đều có khả năng tu hành và giác ngộ thành Phật như Đức Phật không khác, thì phải có cái tự tính giác ngộ này, nếu không có tự tính giác ngộ thì không có ai có thể thành Phật được. Cái điều này là phải khẳng định như vậy, cũng giống như là quặng vàng nó phải có vàng, tức là trong cái quảng ấy nó có cái tinh chất vàng, thì mới có thể luyện cái quảng ấy mà thành ra vàng ròng. Chứ nếu chỉ là quặng than thì chúng ta có luyện cách nào cũng không bao giờ thành vàng được, bởi vì trong cái tự tính của của than mà không có vàng, chúng ta cho rằng chúng ta chỉ tự tính chỉ làm phàm phu thôi, thì chúng ta có tu cách nào cũng không thể thành Phật được, nhưng mà chúng ta phải biết rằng là chúng ta có tự tính Phật,  thì chúng ta mới có thể học Phật để thành Phật, chúng ta tin là giống như quặng vàng thì chúng ta luyện, chúng ta bỏ cái quặng đi thì chúng ta sẽ thu được cái vàng, còn nếu nó chỉ là quặng than chỉ là sắt chỉ là quặng đồng thì chúng ta chỉ luyện ra được tham thôi, chỉ luyện ra được sắt, luyện ra đồng, chứ không bao giờ thành vàng được. Đây là một mình đều khẳng định. Cho nên các tôn giáo khác cho rằng là con người là không có khả năng để để trở thành các bậc vĩ nhân, con người không có khả năng để trở thành thiên chúa, con người không có thể năng trở thành thánh, mà chỉ trở thành cái người phục tùng của thiên chúa được thôi. Và như thế con người muôn đời sẽ trở thành lô lệ của các cái thế lực ấy. Còn Đức Phật thì không, đặt cái địa vị của chúng ta đấy, Phật giáo là khác ở các tôn giáo khác ở cái chỗ này, Phật đặt địa vị của chúng sinh ngang bằng với Phật, cho nên Đức Phật nói là ta là Phật đã thành, và các ngươi là Phật sẽ thành, vì trong tự tính có Phật, vì tự tính có Phật cho nên thì chúng ta phải trở về cái tự tính này này, nương vào cái hình ảnh của Đức Phật bên ngoài, nương vào hình tượng của Đức Phật bên ngoài, mọi khi chúng ta kính lễ như vậy để chúng ta quay trở lại, cái quy y là quay trở lại mà, quay trở lại  nương tựa với cái tự tính giác ngộ thì chúng ta trong tâm luôn luôn có cái tính giác này, chúng ta thấy rõ cái tính giác này thì Phật tính tự hiện. Phật tính giống như là mặt trời, giống như là mặt trăng, nhưng chúng ta bị mây vô minh, mây của tham sân nó che lấp, một lúc nào đó mà chúng ta đánh tan được mây mờ đi, thì cái tự tính nó tự hiển lộ, giống như vàng với quặng ấy, nó bị lẫn quặng thôi mà chúng ta lọc hết quặng đi thì tính chất vàng nó sẽ hiện ra, chứ không phải chúng ta không có Phật tính. Và tính vẫn nguyên vẹn như vậy, cho nên mới gọi là bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, không cấu không nhơ không tăng không giảm vốn có, ai cũng có Phật tính này hết và cái điều quan trọng là chúng ta nương vào Phật, lấy Phật là đối tượng để chúng ta trở về, Phật cũng là con người sinh ra ở trên thế gian này cũng có cha mẹ cũng có thân ngũ uẩn như chúng ta, Ngài cũng là một con người trong loài người, không phải là một cái siêu nhân hay là chư thiên này khác các thứ gì cả, thực sự là Ngài là một con người như tất cả những con người bình thường, nhưng mà ngày vượt lên cái bình thường của con người là Ngài đã giác ngộ, và chúng ta lấy tấm gương của ngài để soi chiếu vào trong tự tính của chúng ta, để quay trở về cái con đường khám phá tự tính này, đấy chính là tự quỵ y Phật. Tự mình trở về với tự tính giác ngộ của bản thân mình, cho nên là hàng ngày mỗi một cái khóa lễ của chúng ta, kết thúc khóa lễ là chúng ta đọc cái câu, tự quy y Phật. Toàn bộ cái khóa lễ đó là chúng ta đang quy về Phật pháp tăng thuộc về sự, ví dụ bắt đầu vào khóa lễ này. Nhất thiết cung kính nhất tâm đỉnh lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo, thế rồi chúng ta đãnh lễ, ví dụ như khóa lễ đãnh lễ đức thích ca, đức di đà, thì cái đó chúng ta đang quy y về mặt sự, nhưng cuối cùng cái sự ấy chúng ta đọc kinh cả cái bản kinh đó để chúng ta quay trở lại tìm về cái tự tính của chúng ta, và kết thúc cái cái thời kinh ấy, kết thúc một cái cái khóa tu tập đấy, chúng ta phải trở về được về tự tính. Cho nên tự quy y Phật, tự trở về với Phật tính vốn có, thì nguyện cho chúng sinh là người nào cũng hiểu rõ được cái đạo lớn này, người nào cũng hiểu rõ được nguyên lý này, và người nào cũng có thể phát được cái tâm vô thượng chính đẳng chánh giác, tức là người nào cũng có thể thành Phật. Câu tự quy cuối cùng của khóa lễ nó là như vậy. Đấy cái phần đầu nó thuộc phần sự, nhưng mà cuối cùng phải trở về lý, thì cái chỗ này là thuộc lý quy y Tam Bảo.

Kinh văn:

IV. LÝ QUY Y TAM BẢO

Lý là bên trong. Lý quy y Tam Bảo nghĩa là quy y Tam Bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy y, chỉ giong ruổi theo Tam Bảo bên ngoài, mà quên lý quy y, nghĩa là quên Tam Bảo bên trong tâm chúng ta, thì chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam Quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam Bảo. Chúng ta cần thực hành lý quy y, hay tam tự quy y: tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng.

1. Tự quy y Phật: Tự nghĩa là mình đối với tự tâm mình. Tự quy y Phật là mình tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm mình. Vâng, mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Đó là lời Phật Thích-Ca đã dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng.

Phật tánh của chúng ta dù bị vọng tưởng, vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường còn. Vậy thì sao chúng ta lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa “cùng tử” có viên ngọc quý, cha mẹ đã giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!

2. Tự quy y Pháp: Tự quy y Pháp là vâng theo Pháp tánh của mình. Trong tâm có đủ pháp Từ Bi, Trí Tuệ, Bình Đẳng, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn…Chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng; như thế là tự quy y Pháp.

3. Tự quy y Tăng: Tự quy y Tăng là vâng theo thầy trong tâm mình. Thầy trong tâm mình là đức tánh thanh tịnh hòa hợp của mình, cũng như Tăng già là hiện thân của sự hòa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu vì mình bị mê muội, không nhận thấy được ông thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, mình nhận thấy được ông thầy thanh tịnh ấy, thì mình phải quy y thầy của mình trước đã chứ!

Nói tóm lại, mình phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm là tánh sáng suốt; với Pháp của mình là các đức tánh Từ Bi, Hỷ Xả v.v…; với Tăng của mình là sự hòa hợp, thanh tịnh của bản thân. Như thế là Lý quy y Tam Bảo.

Giảng giải chi tiết:

Lý quy y Pháp là gì, pháp như đã nói ở trên, pháp là thể tính chân chính vốn có, chúng ta bị cái vô minh điên đảo cho nên mới khởi vọng tưởng, nó khởi vọng tưởng cho nên chúng ta mới thành chấp nhân chấp ngã, do cái chấp nhân chấp ngã ấy nó mới cuốn chúng ta theo cái cái dòng sinh tử luân hồi, và khi mà chúng ta khởi vọng tưởng như thế thì mọi nhận thức mọi hành động của chúng ta đều là rơi vào tà kiến, rơi vào bất chính pháp, và bây giờ chúng ta tự quy pháp, tức là tự trở về với bản chất chân chính vốn có của tự tâm, cái đó chính là tự quy y pháp, và cái đó là quy tự tính pháp. Chúng ta xưa nay là sống trong cái tâm ô trược, nhiễm đục và cấu uấy. Cho nên tự quy tăng, tăng là gì, tăng ở trên đã nói là thanh tịnh, hòa hợp.  hì chúng ta trở về với cái tự tính thanh tịnh hòa hợp vốn có, cho nên cái đó gọi là tự quy y tăng, hay là quy y tự tính tăng. Cho nên trong tâm chúng ta có đầy đủ cái tự tính giác, tự tính chính, tự tính tịnh, cho nên là Tam Bảo chính là giác, chính là tịnh, giác là Phật, c hính là pháp mà tịnh là tăng mà, chúng ta bỏ mê về với giác là tự quy y Phật.  Chúng ta bỏ tà về với chính là tự quy pháp, chúng ta bỏ nhiễm về với tịnh là tự quy tăng,  cái đó là chúng ta trở về tự tính, khi cái tự tính này của chúng ta làm nó sáng dần lên, thông qua đấy, nhờ đọc kinh nghe pháp chúng ta hiểu được pháp là gì thì chúng ta mới quay trở về tìm cái tự tính bên trong, thì đó chính là dựa vào cái sự mà để hiển lý rồi chúng ta nhìn thấy chứ tăng thanh tịnh và tu hành giải thoát thì chúng ta cũng tìm được cái tự tính giải thoát thanh tịnh hòa hợp vốn có bên trong. Đó chính là nương và sự quy y để mà trở về với cái lý quy y. Khi sự lý nó hợp nhất đấy, chúng ta khởi được cái cái tâm giác chính tịnh này, lúc đó chúng ta đang sống với tự tính của Tam Bảo, và trong tâm của chúng ta có đầy đủ Phật pháp tăng. Chứ không phải cầu Phật pháp năng ở đâu cả, cho nên cái đó Đức Phật mới nói là nếu mà chúng ta hướng ra bên ngoài mà tìm đấy, mới gọi là thị nhân hành tà đạo. Chúng ta đã đem số phận của chúng ta giao phó cho người khác. Đức Phật nói là chúng ta phải tự nương tự chính mình, lấy mình làm hòn đảo, lấy mình làm ngọn đuốc phải không, tự soi đường mà đi thôi, Đức Phật là người chỉ đường thôi, thì chúng ta nương vào đó để chúng ta tìm lại bản thân mình, cho nên học Phật đấy, chính là cái con đường mà chúng ta tìm lại bản bản thân chúng ta, tìm lại chính mình, chính là tìm cái bản chất giác chánh tịnh của chúng ta.

Sang phần nghi thức quy y Tam Bảo.

Kinh văn:

V. NGHI THỨC QUY Y

Sau khi chúng ta đã hiểu rõ Sự và Lý quy y rồi, chúng ta cần phải biết qua nghi thức của lễ quy y.

1. Trước tiên phải gội rửa thân tâm cho trong sạch

Quy y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải thoát, vì thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa bãi được.

Khi muốn quy y, chúng ta phải y phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai đường, đảnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ lòng từ bi truyền trao quy giới cho mình.

Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề. Đó là về Thân; còn về Tâm thì ta phải ba phen sám hối, cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận pháp thanh tịnh cao quý của Tam Bảo.

2. Phát nguyện

Đến giờ quy y, chúng ta phải quỳ xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:

– Đệ tử xin suốt đời quy y Phật.

– Đệ tử xin suốt đời quy y Pháp.

– Đệ tử xin suốt đời quy y Tăng.

Sau khi phát nguyện Tam Quy rồi, người phát nguyện tin chắc rằng mình đã gieo hạt giống giải thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Vì thế, người quy y liền nói tiếp ba lần:

– Đệ tử quy y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.

– Đệ tử quy y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.

– Đệ tử quy y Tăng rồi, khỏi đọa súc sinh.

Thế là trọn vẹn Tam Quy và Tam Kiết.

Để bảo tồn lý tưởng cao cả của mình và giữ vững đức tin trên đường đạo, người quy y tự nguyện một cách mạnh mẽ và thành khẩn:

– Đệ tử quy y Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật.

– Đệ tử quy y Pháp, nguyện trọn đời không quy y ngoại đạo, tà giáo.

– Đệ tử quy y Tăng, nguyện trọn đời không quy y tổn hữu, ác đảng.

Như thế là lễ quy y đã hoàn tất. Người tín đồ chỉ còn việc làm theo đúng những lời mình đã phát nguyện và đã tuyên thệ trước Tam Bảo[A2] [A3] .

Giảng giải chi tiết:

Thực hiện quy y rồi, cho nên là phần này chúng tôi cũng không nói nhiều, nhưng ở đây thì xin có nhắc mấy vấn đề liên quan đến quy y. Ở trên bởi vì tôi nói là có trường hợp quy theo hình thức và làm thế nào để chúng ta đạt được cái quy y về mặt bản chất của nó đấy, anh có quy y, anh có thực sự anh đã trở thành Phật tử một cách chân chính hay không, và có đúng nghĩa của nó hay không, hay nói theo cách tổ chức giới đàn, tức là có đắc giới hay không, và đây nó có mấy vấn đề thế này.

Thực ra muốn quy Tam Bảo thì trước hết là chúng ta phải có niềm tin, nếu không có niềm tin ấy thì không bước chân vào đạo được, cho nên cái điều kiện đầu tiên bất kể một người nào, đến với Phật pháp tăng là phải ở niềm tin cho nên trong kinh Hoa nghiêm có nói – tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trường dưỡng nhất thiết chư thiện căn. Tín là mẹ sinh ra tất cả các công đức, nuôi lớn tất cả các căn lành của chúng ta, nếu chúng ta làm bất kể một cái điều gì, không riêng gì Phật pháp đâu, không riêng gì mà tín ngưỡng tôn giáo đâu, làm cái điều gì mà chúng ta không có niềm tin thì không bao giờ thành công được. Kể cả chúng ta có chữa bệnh chúng ta cũng phải tin vào thầy thuốc, tin vào thuốc, tin vào bản thân mình, làm cái gì chúng ta phải tin vào khả năng mình, tức là trước hết phải có đặt niềm tin đã. hưng mà cái niềm tin ở trong Phật pháp thì nó khác với cái niềm tin ở các tôn giáo khác và các công việc khác. Chính tín là tin bằng trí tuệ, và Đức Phật không cho phép bất kể một người nào đến với Đức Phật vì niềm tin mù quáng, hoặc bị dẫn dắt, hoặc bị đồn thổi, hoặc bị người khác ép buộc, cái này phải hiểu rõ, tức là nếu do người khác rủ rê mà mình không biết là mình cứ thế mình đi quy y, xin nói những người đó quy y không thành pháp quy y. Đức Phật không cho phép là chúng ta tin Phật một cách mù quáng, tức là thấy như thế rồi cứ tin và không hiểu Phật là ai cả. Trước hết là học Phật là phải hiểu Phật. Cho nên trước trong cái thời quy y là phải các vị hướng dẫn chúng ta quy y là phải khai thị về chuyện này. Phật phải đòi hỏi là phải chính tín, tin nhưng mà tin một cách chân chính, tin bằng trí tuệ, hiểu rõ. Cho nên Đức Phật nói – các ngươi chớ có tin ta theo cái cái lời đồn thổi của thiên hạ, không được tin theo cách ý, và tin như thế là niềm tin không chân chính, do không chân chính, cái động cơ mà không chân chính sẽ dẫn đến chuyện học Phật không chân chính. Chúng ta tin Phật là Phật là một vị thần, là chúng ta đi quy y để cho Phật bảo hộ chúng ta, thế rồi được ăn nên, làm ra, giàu có, thăng quan tiến chức, xin thưa các vị mà quy với cái tâm niệm như thế, không thành pháp quy y. Đây là cái điều đầu tiên tôi phải khẳng định, những người Quy y Phật như vậy thì không thành để tử Phật được và không thành pháp quy y được và với cái tâm niệm như thế thì không bao giờ hướng dẫn chúng ta học Phật một cách đúng đắn được. Bởi vì chúng ta đã tìm Phật một cách sai lạc, đấy là điều đầu tiên. Điều thứ hai là trong kinh có nói là phải có sự hiện diện của tăng bảo, nghĩa là phải có hiện diện của chư tăng để hướng dẫn. Cái vị hướng dẫn đó là A xà lê thôi tức là người hướng dẫn chứ không phải là chúng ta quy y với vị ấy, chúng ta quy với tăng, chứ không quy với cá nhân một người, đó chỉ là thầy hướng dẫn cho chúng ta mà thôi, tức là người hướng đạo, chứ chúng ta nhiều khi là chúng ta nói là tôi quy y với thầy này, quy y với thầy kia, dù tôi có hướng dẫn cho các vị quy y thì không bao giờ các quy y với tôi cả, nếu các vị quy y với tôi là các vị đọa, tôi nói thật là như vậy, quy với tăng thì không đọa, chứ quy cá nhân với tôi là đọa. Và tôi không phải là tăng, đấy tức là chúng ta xác định sai mục đích đấy. Phật là phải xác định rõ, thứ ba nữa là phải có mặt, nếu mà một người nào mà không có mặt tại buổi lễ quy y, không hiểu được những gì mà người thầy truyền dạy, tức là giảng đấy, không phát khởi được cái tín tâm chân chính, và miệng không tự nói lời quy y hoặc không tự đọc tên mình, thì đều không thành pháp quy y. Hiện nay có những trường hợp là quy y là không đến được, một người đi quy y đại diện cho cả nhà thì cái đó không thành đâu. N ó thuộc gọi là mê tín thế gian, mê tín thế gian. Đấy không phải Phật pháp. Phật pháp là phải tự nói, thực ra thời Đức Phật đấy, thì không cần  có một cái nghi lễ nào cả, chỉ cần sau khi họ nghe pháp mà họ phát khởi niềm tin là họ nói luôn là con tên là thế này xin trọn đời quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, nói lên ba lần như vậy và xin suốt đời giữ gìn năm giới, không sát sinh không trộm cắp vân vân, thế là thành đệ tử Phật, không thông qua bất kể một cái nghi thức nào cả, về mặt lịch sử là như vậy. Nhưng mà vì bây giờ là Phật cách xa rồi, cho nên là bây giờ là phải tổ chức thành các cái buổi lễ cho nó trang trọng, để cho người ta khởi được cái niềm tin thôi, thế là thông qua nghi lễ để cho nó tăng cái độ tín nhiệm, chứ còn thực ra thì không cần thiết như vậy, bởi vì là thời Đức Phật ai có niềm tin lập ức quy ngay, một người cũng quy y, ba người cũng quy chứ không phải đợi là vài chục người mới tổ chức quy y được, bởi nhiều người bây giờ là cứ đến chùa đợi đăng ký hàng năm không có, họ thoái tâm đấy. Chứ thời Phật không, một người cũng được, bất kể lúc nào, thời gian nào thích hợp mà họ nói lên cái câu quy y ấy dưới sự chứng kiến của một vị tì khiêu hoặc vị tì khiêu ny, cho đến là một vị sa di đều có thể chấp nhận được, đấy là nguyên tắc. Thì những trường hợp nào không được quy không, trong luật có nói đến có những trường hợp sau đây là không được quy y Tam Bảo. Người không có niềm tin với Phật, tức là hủy hoại tín căn đấy, hay nói cách khác là người không tin nhân quả là không quy y Phật được. Bởi vì bác vô nhân quả là không có tin Phật, Phật là nhân quả mà, không tin nhân quả không thể quy y Phật được và trường hợp đó có quy y cũng không thành. Đây là một điều thứ nhất.

Trường hợp thứ hai là những cái người phạm tội ngũ nghịch, giết cha giết mẹ phá hòa hợp tăng, làm chảy máu thân Phật, những các cái trường hợp phạm tội ngũ nghịch như vậy, xuất Phật thân huyết đấy, phá hòa hợp tăng đấy, giết a la hán đấy ấy, thì những trường hợp này không được quy y Phật. Bởi vì nó đã hủy hoại tín căn rồi, đời này họ có quy y không có tác dụng, Đức Phật nói là giống như một cái hạt giống mà nó đã bị thui mầm rồi, thì gieo vào cái ruộng tưới tắm nó không mọc được, Tam Bảo chính là ruộng phúc mà, chúng ta quy y chính là chúng ta gieo cái hạt giống bồ đề vào, do đó người phạm tội ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ giết A la hán phá hòa hợp tăng và làm chảy máu thân Phật là không được quy y Phật. Còn ra ngoài ra tất cả mọi người đều có thể quy Tam Bảo. Nhưng mà trường hợp, trong luật nói là ví dụ như cái người mà ngày nay cũng rất là khó, ví dụ như người câm chẳng hạn không thể nói được lời quy Tam Bảo, là không quy y được. Người điếc mà không nghe được tiếng của vị giảng sư để truyền dạy cũng không quy y được. Người bị mù mà không nhìn thấy tôn tượng của Đức Phật, trong tâm không thể hình dung ra được Phật là thế nào, cũng không thể thành các pháp quy y. Ngày nay người ta nói rằng là có thể là dùng chữ nổi này khác các thứ, nhưng mà không bởi vì xét về mặt tự tính những người mà căn tính nó bất cụ đấy, tại sao những người xuất gia mà Đức Phật nói là những người mà căn tướng không cụ túc là không được xuất gia. Và Phật tử tại gia ví dụ như là có thể tàn tật có thể chấp nhận quy y được, những người xuất gia là tàn tật không được phép xuất gia, đui, mù, câm, ngọng, chân tay què quặt là không được đi tu. Bởi vì cái hiện tượng của anh là nhân quả ác, anh bị tàn tật, anh bị khuyết tật đấy là nhân quả, mà anh đã nhân quả nó đã xấu tức là thiểu thiện căn phúc đức nhân duyên là không có đủ thiện căn không đủ phúc đức không đủ nhân duyên. Tuy rằng Phật tính bình đẳng, nhưng mà xét về mặt sự là nó có sai biệt, sự sai biệt này do nhân quả quy định, mà nhân quả không do Đức Phật, mà nhận quả là do tự họ tạo ra, họ sinh vào cái tâm tà kiến, họ không có gần Phật cho nên họ không  quy y được, mà họ có quy y họ không thành, họ quy y họ có quy Phật thì cũng biến thành biến Phật thành tà, cũng giống như là chúngsinh bảo là con rắn nó uống nước trong thì nước trong biến thành nước đục. Cái người mà tâm tà mặc dù có thờ Phật thì cũng chỉ là tà kiến mà thôi, biến Phật thành tà giáo mà thôi, chúng ta thấy rất nhiều người hiện nay tại gia thờ Phật, cũng thuộc cái loại này, thờ Phật với tâm tà, tức là cầu đảo, rồi cúng tế rồi này khác các thứ, làm đủ mọi cái cách theo cái lối mê tín ở ngoài đời đấy, thì cái đó là là dùng tà tâm để thờ Phật, để mong cầu là thăng quan tiến chức rồi động tí là cầu đảo chuyện này chuyện kia, biến Phật thành thần ấy, biến Phật thành tà ma, cái đó là họ dùng tà tâm được quy y Phật. Và tà tâm thì biến cam lộ thành thuốc độc, giáo chính pháp của Phật là cam lộ thì biến cam lộ thành thuốc độc, cho những người ấy là không quy y được, cái này là nói thật thì hơi đau lòng một chút, phải hiểu rõ đến với Phật là cái gì Phật nói là phải hiểu đúng, chứ không thể nói theo cách này cách khác được, những trường hợp đó là quy y không được, cho nên tôi mới nói là họ có quy y, họ cũng được cấp điều quy y nhưng mà xin thưa nó chỉ là cái hình thức thôi, nó không đạt đến cái kết quả nội dung. Tức là đạt được cái tâm quy y làm sao để chúng ta phải đánh thức được cái tâm bồ đề của chúng ta, sau cái buổi quy y ấy là chúng ta phải thay đổi hoàn toàn được, thì người đó mới gọi là đắc giới, người đó mới thật sự gieo được tự tính Phật tự tính pháp tự tính tăng được đánh thức ở trong tâm, cái buổi lễ quy y chính là cái buổi mà đánh thức giao cái chủng tử bồ đề đấy nó trong tâm, trong tâm chúng ta nó ngủ mê lâu quá rồi, thì những người thầy quy y là có tác dụng thức dậy, đánh thức cái tâm này, đánh thức tự tính giác này, đánh thức cái tự tính chính này, đánh thức cái tự tính tịnh này, người nào mà thức tỉnh hoàn toàn lúc bấy giờ, là họ đắc quy y. Thế còn không thì nó chỉ đang rơi vào cái tình trạng ở ngưỡng mang tính hình thức, quy y trên giấy, được phát một tờ giấy, thế là khoe ra tôi là Phật tử, nhưng mà trong tâm hoàn toàn không có thay đổi được cái gì cả, không nhận thức đúng được căn bản của Phật pháp là cái gì cả, và sau khi quy y như thế họ cũng không làm cái gì để thay đổi bản thân họ để học theo Phật, thì cái đó chỉ là quy trên mặt giấy tờ, về hình thức, quy y là phải thật sự là phải đánh động được tâm thức của chúng ta, phải thực sự làm cho chúng ta biết quay đầu, thực sự làm cho chúng ta nhận thức đúng về Phật pháp, và tất cả những cái gì sai lầm từ xưa đến nay chúng ta phải từ bỏ, để bước vào một cái cuộc đời mới đấy bước vào một con đường mới, bước vào một cái sự tỉnh thức mới thì đấy mới thật sự là quy y Tam Bảo. Cho nên ở đấy nói là là về mặt nghi thức là nó phải có những các cái điều này, nhưng còn nghi thức thì lễ thỉnh Tam Bảo, rồi xám hối, rồi thụ tam quy y, rồi thụ tam kết, rồi thụ các điều giới pháp vân vân, nó chỉ mang cái tính chất là hướng dẫn cái nghi thức, nhưng mà quan trọng hơn trong cái nghi thức đó là cái sự khai thị của vị giảng sư, của vị giới sư đánh động được tâm thức của chúng ta, và chúng ta có cái lòng khao khát như là cái người đói muốn ăn, người khác muốn uống, tâm thức nó phải mở ra và được đánh động, thì lúc bấy giờ cái việc quy y có kết quả. Nhiều người ngày nay bảo là do bệnh dịch này khác các thứ có thể quy y, tự quy y được không, tức là không cần đến chùa quy y ở nhà được không, hoặc là quy y thông qua online được không, thực ra thì nói được nó vẫn được, nhưng mà nói không thì nó vẫn hoàn toàn là không, trong kinh nói là nơi nào mà không có Phật pháp, các Phật pháp hàng trăm dặm hàng ngàn dặm, tức là ngày xưa thì đi bộ mười ngày đấy, mà không tìm được chùa, không tìm được tăng ấy, thì được phép tự sám hối, tự quy y, tự tự phát nguyện. Nhưng mà nếu mà gặp được tăng thì vẫn phải đến quy y. Cho nên là Phật giáo nan truyền chúng tôi nói một cái điểm này, chúng ta quy y rồi chúng ta có thể học tập này, ít nhất một ngày người ta phải nhắc nhở họ về cái cái câu tự quy hai lần, buổi sáng sớm cũng phải đọc tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh đấy, hoặc đọc là con tên là xin nguyện trọn đời quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng, Đức Phật thích ca mâu ni là thầy của con, và phải đọc như thế ba lần, để tự nhắc nhở cái đó nó thuộc về sự, để làm tỉnh thức trong tâm họ là sống thế nào trách nhiệm với cái mình đã quy y Phật. Cuối ngày trước khi đi ngủ cũng phải nhắc lại một câu như vậy. Cho nên, vào ngày rằm, ngày mùng một, chúng ta gọi là ngày sám hối, họ đến chùa cũng lại các sư cũng đọc lại cái câu đấy, họ cũng đọc lại một lượt, không phải là họ quy y một lần là xong đâu, mà ngày nào họ cũng phải hầu như họ phải đọc một cái câu quy y đấy ít nhất hai lần, cho đến một cái người chuẩn bị lâm chung rồi những người ốm đau này khác, người ta đều chỉ đọc một cái câu quy y thôi. Nhắc cho người đó rằng họ đã quy y Tam Bảo. Và chúng ta đấy chính là phương pháp gọi là niệm Phật niệm pháp niệm tăng đấy, không có gì đâu, trong kinh di đà nói là cây cối này khác các thứ người ta niệm Phật, đấy chính là nhớ. Chúng ta thì đọc bằng cái ba cái câu tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng cũng được. Phật giáo Nam truyền người ta phải đọc là đệ tử con tên là xin nguyện trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Thế tôn của con, khẳng định nó như thế thôi, đọc 3 lần, còn chúng ta thì đọc theo cái câu kệ là tự quy y Phật đương nguyện chúng sinh thể giải đại đạo phát vô tận tâm cũng được, ít nhất là các vị nhớ cho buổi sáng các vị đọc một lần, buổi tối đi ngủ đọc một lần, nhắc lại là chúng ta quy y. Đến chùa lễ Phật tụng kinh đều phải nhắc đến câu này, để chúng ta nhắc cái bổn phận ấy, chúng ta là người quy Tam Bảo rồi, và cái đó cũng là để chúng ta đánh thức cái tự tính Phật pháp tăng vốn có. Cho nên là cái lễ quy  mà do các vị giới sư truyền chỉ cần thực hiện một lần, nhưng mà chúng ta cũng có thể tham dự rất nhiều lần không có sao cả, nó gọi là tăng thượng giới, tức là làm cho cái cái quy y của chúng ta tăng thượng lên, nếu gặp các bậc đạo cao đức trọng thì người ta có thể quy y nhiều lần không sao. Phật tử nam truyền thì cứ ngày rằm ngày lễ người ta đến chùa và các chư  tăng đều hướng dẫn người ta đọc cái câu quy y hết, nó rất là ngắn, thì có đọc mỗi một câu, đọc ba lần, thứ nhất con tên là quy y Phật quy y pháp quy y tăng, lần thứ hai con tên là quy y…. đọc ba lần,  cái này không phải là chỉ một lần,  mà người ta làm rất nhiều lần trong cuộc đời, người ngày nào người ta cũng đọc.
Cái nghi thức mà chúng ta tổ chức là truyền tam quy, thì nó mang tính chất nghi thức, nghi lễ tôn giáo, nhưng mà cái bản chất của nó, tôi đã nói là nó phải đạt được cái cái kết quả, tức là cái người truyền giới, nghĩa là giới sư truyền giới phải là người đại diện cho tăng, có đầy đủ cái giới đức, thanh tịnh. Và thứ hai nữa là chúng ta là đủ các cái điều kiện, tức là phải có niềm tin và niềm tin ấy là phải niềm tin chân chính, không phạm vào các cái tội ngũ nghịch phải không, và không khởi cái tâm tà và khi quy y Phật, thì lúc bấy giờ thì cái cái nghi lễ mà chúng ta thực hiện quy y Phật mới có thể thành tựu được, trong suốt cuộc đời chúng ta là phải luôn luôn nhắc nhở cái ba cái điều quy y này, và đấy chính là nền tảng và cũng là chúng ta dựa vào cái sự đó để trở về cái tự tính giác chánh tịnh vốn của của chúng tabệnh vẫn có của chúng ta nay chúng ta xin dừng ở đây

Phần 2

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Nam mô A Di Đà Phật.

Kính thưa đại chúng hôm nay chúng ta tiếp tục, bài hôm trước là bài về tam quy, quy y Tam Bảo, còn phần thứ sáu- xin mời các vị đọc bài.

Kinh văn

VI. LỢI ÍCH CỦA QUY Y TAM BẢO

1. Khỏi đi lạc đường đời vào nơi tăm tối

Như chúng ta đã thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng sinh đang lặn hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lõng giữa đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi thảm như thế, nếu không thấy được những phương tiện để đi đến, không có những bậc thầy để dìu dắt đến, thì chúng ta sẽ quay cuồng mãi mãi trong biển sinh tử luân hồi. Cái đích sáng ấy là đức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc thầy dìu dắt ấy là Tăng. Khi chúng ta đã biết có những sự quý báu như thế mà không nắm bắt lấy, thì chẳng khác gì người sắp chết đuối thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra.

Sự quy y chính là một cách bám víu vào cái bè Tam Bảo mà Phật đã chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết đuối trong biển đời là toàn thể chúng ta.

2. Khi đã phát nguyện quy y, mình dễ giữ đúng lời đã hứa, vì có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng.

Có người nói: “Tôi tôn sùng đức Phật, vì biết Ngài là một đấng sáng suốt hoàn toàn; tôi trọng Pháp vì biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát; tôi kỉnh Tăng vì biết đấy là những vị đại diện của Phật. Biết như thế cũng đủ, cần gì phải làm lễ phát nguyện quy y?”.

Nói như thế là chưa đủ giá trị về phương diện tâm lý của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng ta đã hứa với ai một điều gì, mà nuốt lời hứa, thì tâm hồn chúng ta bứt rứt, hối hận không an. Đã hứa tất có bổn phận làm trọn lời hứa, nếu thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành trong một khung cảnh trang nghiêm trước điện Phật, trên có sự chứng tri của chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của thân bằng quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta khó lòng mà trái lời nguyện, hay xao lãng nó được.

Vậy đã biết Tam Bảo là quý, tất nhiên ta phải quy y Tam Bảo và cử hành lễ quy y một cách trang nghiêm mới được.

Giảng giải chi tiết

Đây nói về lợi ích của quy y Tam Bảo, thực ra thì hai điều nói ở trên, chúng ta đã nghe nhưng mà trong Phật pháp thì nói lợi ích của quy y Tam Bảo có rất nhiều, thì trước hết là để chúng ta quy y Tam Bảo để trở thành đệ tử của Đức Phật, có người nói như đã nói trên là tôi học Phật rồi, học pháp rồi tự tu tập, nhưng nếu không quy y thì chúng ta không bao giờ trở thành đệ tử của Đức Phật. Nói đơn giản như bên ngoài một tổ chức, nếu anh không tham gia cái tổ chức ấy, anh không được kết nạp trong tổ chức ấy, thì anh không bao giờ anh trở thành thành viên của tổ chức ấy được cả. Giống như một người dù anh có tốt đến mấy, mà anh không phải là đảng viên mà anh không được kết nạp đảng, thì anh không bao giờ đứng trong tổ chức của đảng được, và như thế anh không bao giờ có được cái quyền lợi và nghĩa vụ của một đảng viên có thể có được. Chúng ta tin Phật, tự nguyện phát nguyện trước Phật, trước sự chứng minh của chư tăng để trở thành đệ tử của Đức Phật, là chúng ta tự xác nhận mình trở về với tự tính Tam Bảo vốn có, và điều quan trọng hơn là để chúng ta tự nguyện thực hiện lời Phật dạy, còn đã không hứa, thì họ làm cũng được, không làm cũng được, không ai bắt tội họ cả. Thường là như vậy nếu mà không hứa với ai cái điều gì thì tôi làm cũng được, không làm cũng được, và tính dễ dãi, tính phóng túng rất dễ xảy ra, và họ không cách nào họ thực hiện được lời Phật. Đã không thực hiện được lời Phật thì không cách gì chúng ta tìm được an lạc hạnh phúc ngay trong đời này và đời sau. Học Phật ở trên ba phương diện là văn, tư và tu. Người ta chỉ nghiên cứu giáo lý của Đức Phật, chỉ nghe giảng kinh thuyết pháp không đủ, bởi vì nghe không đủ phát sinh ra từ bi và trí tuệ cho chúng ta, và chúng ta cũng không đủ khả năng để biện biệt, những điều chúng ta nghe ấy có đúng chân lý hay không, do đó cần phải có sự suy tư. Đức Phật nói chớ có tin vội- y pháp bất y nhân- bất kể ai nói đừng có tin vội. Có người cho rằng, tôi nghe cái điều này từ Đức Phật, Đức Phật nói cũng đừng có tin vội, bao giờ chúng ta tin chúng ta phải suy nghĩ, chúng ta phải thực nghiệm, chúng ta phải đối chiếu những điều Đức Phật đã dạy trong kinh điển, nếu thực hiện nó đem lại kết quả, nếu thực hiện nó đem lại lợi ích, thì lúc bấy giờ mới nên tin. Còn không thể tin một cách mù quáng được, cho nên muốn có được niềm tin một cách chính xác ấy, là phải tư. Tức là phải suy nghĩ trên cơ sở chân lý mà Đức Phật đã dạy, mà quan trọng hơn nữa là suy nghĩ rồi phải thực nghiệm, phải thực hành. Cho nên pháp của Đức Phật là phải đến để mà thấy, tức là phải thực hiện chúng ta mới thấy được, đến tức là chúng ta đi ở trong Phật pháp, gọi cái đó chữ Hán gọi là hành. Tu hành tức là sửa mình và đi trên con đường ấy, nếu chúng ta không tự sửa mình, không đi trên con đường của đạo, không bao giờ chúng ta đến đích, không bao giờ chúng ta nếm được cái vị của Phật pháp cả. Cho nên là cái lợi ích của Phật pháp là gì- thiết thực trong hiện tại, giáo pháp của Phật là phải thiết thực trong hiện tại. Chứ đừng có chờ mong chờ một cái cái tương lai nào nó mù mịt ở kiếp sau, kiếp sau nữa. Đức Phật không có hứa hẹn chuyện như vậy, nếu mà ngay trong hiện tại chúng ta đã không có an lạc hạnh phúc, thì đừng mong gì có hạnh phúc ở kiếp sau, hiện tại chúng ta có an lạc hạnh phúc do học Phật, thì tương lai chúng ta mới có an lạc hạnh phúc được. Nhân quả là như vậy, nhiều người tin Phật bằng cách là tin theo để mong chờ một cái cái hạnh phúc nào nó xa xôi ở kiếp sau, kiếp sau nữa, cái đó không phải, nó phải là thiết thực trong hiện tại, giáo Pháp của Đức Phật là nó vượt thời gian, phải được các bậc trí khen ngợi. Đấy chính là lợi ích của pháp, lợi ích của Phật. Cho nên ở trên có nói là quy y Phật bất đọa địa ngục, quy y pháp bất đọa ngạ quỷ, quy y tăng bất đọa súc sinh, nghĩa là quy y Phật pháp tăng đúng nghĩa và thực hành được thì mới đóng được cửa tam ác đạo, chứ không phải là chúng ta cứ đi quy y Phật là không đọa địa ngục, quy y Phật tức là chúng ta trở về với giác ngộ thì mới không đọa địa ngục. Chúng ta chỉ có thực hiện một cái lễ quy y không, mà đòi hỏi không đọa địa ngục, mai chúng ta vẫn cứ làm ác, vẫn cứ làm bậy, vẫn cứ làm tạo tội tạo nghiệp, làm sao mà không đọa địa ngục được, ngày nào cũng đọc câu quy y Phật nhưng mà vẫn đọa. Phải hiểu là cái bản chất của quy Phật là phải trở về nương tựa với tính giác ngộ, mà giác rồi còn không mê nữa, thì nó mới không đoạn địa ngục, địa ngục là cái lời tăm tối không có ánh sáng, không có trí tuệ, ngu si vô minh, thì mới gọi là không đọa địa ngục. Quy y pháp không đọa ngạ quỹ, ngã quỷ là do tham lam, keo kiệt, bủn xỉn, tạo cái nghiệp ý đói khát. Thế thì pháp là gì, pháp là chính pháp, bỏ được cái suy nghĩ về tà vậy, quy y trở về với đạo lý chân chính thì chúng ta mới đóng được cửa ngã quỷ. Quy y tăng thì mới bất đọa súc sinh, Tăng là thanh tịnh, chúng ta bỏ cái cấu uế để trở về với thanh tịnh, sống với cái cái tâm trong sạch của mình, thì mới đóng được cái cửa súc sinh lại. Cho nên, quy y Tam Bảo phải đóng chặt được cửa tam ác đạo, mở được cái cửa thiện đạo, tức là mở được cửa nhân thiên. Ở đây chúng ta phải phải nhận thức một vấn đề gì, Đức Phật nói dậy chúng ta pháp tam quy và ngũ giới, là để chúng ta gieo cái nhân trở lại làm người, nhưng đặt lại vấn đề là đời này kiếp này chúng ta có được cái thân người này, là kiếp trước mà nhiều kiếp trước chúng ta cũng đã phải tu cái tam quy, ngũ giới này rồi, kiếp này mới có được một kiếp làm người. Nếu đời này kiếp này mà chúng ta không thụ tam quy, không giữ gìn năm giới thì có một cái điều chắc chắn như Đức Phật nói không có cơ hội trở lại làm người kiếp sau. Đó là một điều khẳng định. Một lần Đức Phật cầm nắm đất trên lòng bàn tay, rồi Đức Phật buông nó ra, trong lòng bàn tay Đức Phật thì dính lại một chút đất thôi, Đức Phật đã có hỏi các vị tỳ khiêu, này các tỳ khiêu, đất ở đại địa nhiều, hay đất ở dính ở trong lòng bàn tay Như Lai nhiều, điều đó ai cũng biết rồi – bạch đức Thê tôn đất trên đại địa là nhiều, đất dính ở trong lòng bàn tay đức thế tôn là rất ít .Thế tôn có nói thế này này các tỳ khiêu, ta nói thật cho các ông biết rằng, những người sau khi chết đi, được trở lại làm người chỉ giống như một chút đất ở trên lòng bàn tay của ta mà thôi, còn những người sau khi chết đi mà không được trở lại làm người đấy, thì nhiều như đất trên đại địa. Nếu xét ra cái này đúng, bây giờ trên thế giới của chúng ta, địa cầu của chúng ta có thấy bảy- tám tỷ dân, có bao nhiêu người quy y Tam Bảo, trong những người quy y Tam Bảo ấy, có bao nhiêu người thực chất, thực hiện được cái điều quy y Tam Bảo, con số đó quả thật đúng như Đức Phật nói, chỉ như chút đất trong lòng bàn tay mà thôi, không có nhiều hơn. Chúng ta phải nhận thức như vậy, ở đây trở lại vấn đề có người có xu hướng cho rằng bây giờ chỉ cần quy y Phật, quy y Pháp không cần quy y Tăng, cho rằng chư tăng thời mạt pháp là không xứng đáng để làm thầy cho họ, quan điểm này hoàn toàn sai lầm. Không phải tôi là một vị tỳ khiêu, tôi là tăng tôi bảo vệ tăng, cái đó là đương nhiên, nhưng mà nó sai ở cái chỗ chúng ta ở trên chúng ta nói là Tam Bảo là đồng thể, Phật pháp tăng là cùng một thể tính, không thể tách chia ra được, nó chẳng qua là một thể tính nhưng mà mang tên gọi, ở phương diện giác thì gọi là Phật, ở phương diện chính thì gọi là pháp ở phương diện tịnh thì gọi là tăng, giống như là một cục vàng làm ra cái ấm thì nó gọi tên là cái ấm, làm ra cái chén nó gọi là cái chén, làm cho cái mâm nó gọi là cái mâm. Nhưng mà thể tính của nó là chỉ có một thôi, giác – chính – tịnh thể tính là một. Tên tùy gọi là có ba, nhưng mà thể chất vốn là một, thể chất là một. Cho nên là không thể có cái chuyện là quy Phật mà không quy y pháp được, mà cũng không thể có chuyện là quy y Phật, quy y Pháp mà không quy Tăng được. Phải quy y cả ba ngôi này, ba ngôi này là đồng nhất thể tính. Cho nên, khi Đức Phật thành đạo vô thượng bồ đề, thì hai người thương chủ đề nghị là hai người đầu tiên quy Phật, và lúc bấy giờ chưa có tăng bảo, nhưng mà phải quy y vị tăng, quy y Phật, quy y pháp. Vì lúc bấy giờ ngôi tăng chưa xuất hiện. Cho nên nếu mà tính trong các đệ tử của Đức Phật, thì hai người đệ tử tại gia đầu tiên, rồi xong mới đến đệ tử xuất gia và đệ tử tại gia thì chúng ta biết rồi chiếm được số đông. Đức Phật ra đời vì hạnh phúc cho số đông, cho cái nền tảng của số đông ấy là nền tảng của tam quy ngũ giới, thực ra trong Phật pháp thì tất cả các cái cái cấp độ giới đấy, đều lấy tam quy ngũ giới là nền tảng, tam quy bát quan trai giới, rồi tam quy thập thiện giới, rồi tam quy thập giới của sa di, rồi cho đến kể cả là tỳ khiêu, như chúng tôi thụ giới tỳ khiêu cũng phải lấy nền tảng tam quy. Cho đến là các vị mà thụ bồ tát giới cũng phải là nền tảng tam quy, tam quy nó là giống như cái móng của ngôi nhà, đây là căn bản của Phật pháp, nếu không có nền tảng này thì Phật pháp không tồn tại, cho nên chúng ta mà không có nền tảng này thì không có pháp lành nào có thể tu tập được, từ đó nó tạo nên cái lợi ích của chúng ta, phải lợi ích ở ngay trong đời này, đây là nền tảng để chúng ta học Phật, nền tảng để chúng ta tự quay trở lại với chính bản thân mình, và đây là nền tảng quan trọng nhất mà hình thành lên toàn bộ giáo lý của Phật pháp.

Sang phần cuối là kết luận

Kinh văn:

C. KẾT LUẬN:

Khuyên tín đồ nên quy y cả sự lẫn lý và tinh tiến trong sự quy y.

Chúng ta đã thấy; là Phật tử thì phải quy y. Quy y phải đủ Sự và Lý. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao lãng bên trong. Cũng như không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng mình mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy y thì trước tiên phải long trọng làm lễ quy y để đánh dấu bước đi đầu tiên của mình trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiệm vụ mới. Nhưng một khi đã đặt chân lên đường, thì người ấy phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Đã phát nguyện quy y mà không theo dấu chân của đức Phật đã để lại, không soi vào gương sáng của đức Phật đã nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của chư Tăng, như thế là tự lừa dối mình và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy y.

Trái lại, nếu chúng ta quy y và thực hành đúng như lời đã phát nguyện thì con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ có ngày thấy đích.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nhắc chúng ta là quy y cả sự lẫn lý, ở trên đã nói vấn đề sự, lý của quy y rồi. Sự là chúng ta nương vào Tam Bảo bên ngoài, nương vào cái hình tượng của chư Phật để trở về với tự tính giác ngộ bên trong, nương vào giáo pháp của Đức Phật để trở về với cái sự chân chính bên trong, nương về chúng Tăng thanh tịnh, là bậc thầy hướng đạo để chúng ta trở về với cái sự tịnh vốn có, cho nên hàng ngày tu tập là để chúng ta trở về với cái giác chính tịnh, cái đó chính là quy y. Trước chúng tôi đã nói là kết thúc mỗi một cái cái thời khóa tụng kinh, chúng ta đều có tam tự quy y, tức là tự trở về với Phật, tự trở về với Pháp, tự trở về với Tăng, và tự tính vốn có ấy là ở trong chúng ta vốn có- đó là quy y về mặt lý. Sự là chúng ta phải nương vào sự bên ngoài, cũng như là phải quy Phật ở bên ngoài chúng ta phải có hình tượng của Phật để chúng ta thấy đó để thức tỉnh cái tự tính bên trong, hàng ngày nghe pháp đọc tụng kinh điển để nhắc nhở lời Phật dạy, thấm dần vào trong tự tính của chúng ta, đánh thức tự tính chính- tức là chân chính của chúng ta, gặp gỡ chư tăng tham vấn học hỏi, để chúng ta trở về với cái tự tính thanh tịnh, đấy là chúng ta từ nơi sự để chúng ta đi vào chỗ lý, nhưng cũng từ nơi lý ấy mà chúng ta thấy rõ và trân trọng mặt sự, tuy rằng Tam Bảo sự tướng, nhưng mà cái tướng ấy nó biểu hiện được cái chân lý bên trong. Có như thế thì chúng ta mới đạt được sự rốt ráo của sự học Phật, bởi vì mục đích học Phật của chúng ta đó là giác ngộ, chứ không phải cầu phúc báo nhân thiên. Nhưng đối với Phật tử tại gia chúng ta hiện thời vì nhân duyên đời này kiếp này, chúng ta chưa thể đi đến cái con đường rốt ráo ấy được. Thì chí ít chúng ta cũng phải gieo được chủng Phật tính ở trong tâm, đánh thức lại, để làm thế nào chúng ta không mất thân người ở kiếp sau. Tam quy ngũ giới là nền tảng để trở lại cõi người. Tam quy, ngũ giới mà trung phẩm thượng phẩm vẫn có thể sinh lên cõi trời, nhưng nếu mà chúng ta thật sự ở trong trần cảnh của thế tục, tu hành như lời Phật dạy vẫn có thể chứng được sơ quả thánh nhân, vẫn có thể chứng được nhị quả, vẫn có thể có trường hợp chứng được tam quả, và có những trường hợp ở tại gia, người tại gia vẫn có thể chứng tứ quả A la hán. Người tại gia chứng tứ quả A la hán thì có có hai trường hợp xảy ra, một là sau khi đã chứng quả A la hán thì lập tức nhập niết bàn, còn không ý là phải lập tức xuất gia, bởi vì quả vì A la án không có trong cái hiện tướng ấy của người thế tục, mà nó phải là hiện tướng của người xuất gia, cho nên nó phải dẫn đến có hai trường hợp, một là nhập niết bàn luôn. Hai nữa, nếu còn giữ cái cái thân này, là hữu dư niết bàn ấy, thì phải xuất gia.
Cho nên chúng ta đừng có nghĩ rằng là tam quy, ngũ giới của người tại gia là pháp bình thường. Không phải chỉ có cõi người, cõi người là thấp nhất, nên nhớ là như vậy, còn cao nữa là có thể chứng đến tam quả A la hàm, còn cao nữa vẫn có thể chứng A la hán, và trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế thì rất nhiều những người vẫn đang mang thân phận tại gia, vẫn chứng quả A la hán, và sau đó là các vị phần lớn là xuất gia. Còn sơ quả, nhị quả, tam quả thì chúng ta biết rồi, rất nhiều số đó không kể hết được. Lợi ích của của việc học Phật là cái đích rốt ráo là giải thoát, tức là chấm dứt được sinh tử luân hồi, còn nếu mà giữ cái thân sinh tử luân hồi thì chúng ta cũng đóng chặt được cái cửa tam ác đạo, đấy chính là cái việc mà chúng ta học Phật hướng tới. Sau cái bài thứ tư là chúng ta có cái bài thứ năm nói về ngũ giới, thì thực ra nội dung ngũ giới này chúng tôi đã giảng trong năm buổi trước đây về năm, sáu, bảy buổi về nội dung ngũ giới rồi và giảng rất kỹ, cho nên đề nghị các quý vị Phật tử chúng ta đọc lại ở trong tài liệu, và nghe lại, xin đề nghị là nghe lại năm cái bài giảng về ngũ giới, trước đây chúng tôi đã đã giảng và đã cũng đã đăng lên ở trên Youtube rồi, thì chúng ta sẽ nghe lại, hôm nay không phải giảng lại cái phần này nữa, cho nên cái bài thứ năm thì chúng tôi xin tóm tắt mấy cái cái vấn đề chính thế này. Đối với năm giới của người Phật tử tại gia- sát sinh, ăn cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu, đây là năm cái nền tảng đạo đức chúng ta gọi là giới nhưng mà thực ra đây là căn bản đạo đức làm người và toàn bộ nói mở rộng ra đấy, đây là cái hạt nhân trung tâm của toàn bộ giới luật của Đức Phật. Cho đến kể cả là hai trăm năm mươi giới của người xuất gia như chúng tôi hoặc ba trăm bốn tám giới của các vị xuất gia tỳ khiêu ni, cho đến bồ tát giới thì cũng chỉ là triển khai một cách chi tiết của năm giới này mà thôi, cho đến nội dung của nam giới là trọng tâm. Trong nam giới này thì nó có bốn giới đầu là sát sinh, trộm cắp, tà dâm và vọng ngữ là nó thuộc căn bản giới. Thế còn có một cái giới mà gọi là uống rượu và nghiện ngập ấy thì nó là giới gọi là giới tùy chế, gọi là già giới, giới giới ngăn chặn. Căn bản gốc rễ của nó là bốn giới đầu. Bốn giới đầu phải nên hiểu rằng đó là căn bản, Đức Phật nói dù Đức Phật có ra đời hay không ra đời, dù chúng ta có là đệ tử của Phật hay không là đệ tử của Phật, thì nếu vi phạm vào 4 điều này nó sẽ dẫn đến nhân quả, nó sẽ dẫn đến nghiệp báo, và nó là ác pháp, có thế thôi. Cho nên trên cơ sở đó dù bất kể một quốc gia nào, một xã hội nào người ta đều ngăn cấm cái cái chuyện ấy cả, có cái là phạm vi ngăn cấm của nó là cao hay thấp mà thôi. Ví dụ như giới sát thì trong phạm vi mà Đức Phật quán chiếu về nhận quả thì ngài thấy rằng tất cả các loài chúng sinh từ côn trùng nhỏ bé cho đến là bậc cao nhất là các bậc thánh nhân và chư Phật, thì cái thể tính là bình đẳng. Cho nên Đức Phật nghiêm cấm sát sinh, trên từ chư Phật, thánh nhân, sư tang, phụ mẫu cho đến loài người, cho đến nhỏ như các loài côn trùng đều không được giết. Nhưng pháp luật thế gian thì người ta chỉ ngăn cấm là gì giết người, trong giới luật của Đức Phật, ngoài  chuyện giết người ra, liên quan đến người, nó còn liên quan đến gọi là thai nhi, có những quốc gia hiện nay người ta cấm phá thai, nhưng có những quốc gia thì người ta lại khuyến khích phá thai, đấy là quan điểm của thế gian. Nhưng mà tất cả các thế gian đều ngăn chặn cái chuyện giết nghề hết, các bậc thánh nhân, sư tang, phụ mẫu thì đều là đưa vào pháp luật hết. Nhưng một số các quốc gia hiện nay thì người ta cũng có những bộ luật cấm giết hại các loài động vật quý hiếm chẳng hạn, người ta đã đưa vào luật, tức là không được giết hại, người ta cho rằng đó là những động vật quý hiếm cần phải bảo vệ, thế thì đã có một số các loài vật được bảo vệ bằng bằng pháp luật, do cái nhìn khác nhau đấy mà chúng ta thấy khác nhau. Nhưng mà bằng tuệ giác của Đức Phật thì Đức Phật thấy rằng là tất cả chúng sinh bình đẳng, và như trên đã nói là tránh quả báo xấu ác. Đức Phật nói là tất cả chúng sinh đều ham sống sợ chết, do đó chúng ta không thể cướp đoạt đi mạng sống của kẻ khác để bảo vệ mạng sống của mình được, đây chính là một chân lý. Giới sát là nó nằm trong phạm vi như vậy, nhưng mà ở đây tôi phân tích để cho chúng ta thấy rằng, trong tất cả bốn giới mà chúng ta nói là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, kể cả là uống rượu là động cơ phạm tội. Động cơ phạm tội là ở đâu, cái gì dẫn đến sát sinh trộm cắp tà dâm, thì động cơ của nó đều là tham- sân – si. Ví dụ như có người sát sinh là do tham, tham ở đây nó có rất nhiều, có người là vì tham tiền cho nên là người ta phải làm nghề sát sinh, người ta phải giết mổ các loài động vật đem bán. Đối với đệ tử của Đức Phật, như đã nói trước rồi, Phật cấm không cho chúng ta được phép làm nghề đồ tể, sát sinh không được phép làm. Chưa kể nói đến quan niệm của Phật giáo Bắc truyền là ăn chay, ngay chuyện ăn thịt đã không được ăn rồi, những người nào mà thụ Bồ Tát giới mà ăn thịt chúng sinh là mất giới, phá giới. Còn chúng ta thụ tam quy ngũ giới thì Phật chỉ cấm sát sinh thôi, không cấm ăn thịt. Phải nói rõ chuyện này, đối với những người thụ năm giới, nhưng thịt mà chúng ta ăn phải là tam tịnh nhục, tức là không thấy không nghe không nghi. Tức là không thấy con vật nó chết, không nghe thấy tiếng con vật nó kêu khi chết, và không nghi người ta giết vì mình. Nhưng mà cái này thì rõ ràng là có người mua thì mới có người bán, nếu mà chúng ta không mua thì người ta sẽ không giết người ta bán cho ai, cho nên trong kinh thủy xám mới nói rằng là, người bỏ tiền ra mua chính là người xui người khác giết. Và nếu xui người khác giết như thế, bỏ tiền ra mua như vậy là vẫn phạm tội, là xúi giục kẻ khác giết, hoặc thấy giết, hoặc bảo người khác giết, hoặc là tự mình giết, đều là phạm tội về mặt tâm lý, cho nên kỹ lưỡng là ở chỗ đó, trừ là chỗ đó là tự nhiên có người là mang đến cho mà không có vì lý do gì, thì lúc bấy giờ mới có thể ăn được. Chứ còn bây giờ mà bảo tôi bỏ tiền ra tôi mua, bỏ tiền ra mua là là trong kinh nói xui người khác giết nghĩa là mình thuê người khác giết đấy, mình trả lời cho họ, họ bán cho mình họ lấy lãi mà, tiền đó là chúng ta trả công cho họ, họ giết họ bán cho chúng ta. Có những người là do tham tiền mà giết, nhưng mà có người do tham ăn và mà giết, thích ăn con này con kia xong rồi là bắt để giết. Đều là do tham cả, tham vị này vị kia, cho nên là hôm nay ăn cái vị con vật này rồi mai muốn ăn vị con vật khác, đấy đều là do cái tham ăn, thế rồi người mà làm nghề đồ tể thì tham tiền, người chăn nuôi động vật các loài vật cũng đều là do cái tham này, và kể cả bây giờ những doanh nghiệp, xí nghiệp nuôi những các cái loại động vật mà bán hàng loạt, thế rồi nhà máy giết thịt hàng loạt, đều có cái tội sát này. Cho nên là xét về mặt xã hội là tôi nói rộng cái chỗ này một chút, họ cũng có phúc của họ nhưng họ cũng có cái họa của họ. Ví dụ như xét về mặt xã hội, những người mà làm các cái nhà máy giết mổ họ cũng cung cấp được một cái thực phẩm sạch cho xã hội, nó làm cho xã hội được an toàn một phần về thực phẩm, cái đó chính là họ cũng tạo ra một phần phúc. Do đó họ có lãi, nhưng mà họ sát sinh là họ phải gánh cái nghiệp quả do sát sinh đem lại, và nghiệp quả sát sinh thì như trong kinh, trong luật nói rồi, sát sinh là phải thường mạng, tức phải đền mạng. Và nếu đời này kiếp này họ giết một tỷ con vật thì chắc chắn họ phải có một tỷ cái mạng sống ở một tỷ kiếp sau để cho người khác giết lại, đó là nhân quả. Và cái điều đó là nhân quả công bằng, không thể tránh được. Cho nên tại sao Đức Phật cấm ngăn chúng ta không sát sinh là để tránh quả báo xấu ác sau này, đấy mới là là điều chính, nếu mà chúng ta còn tiếp tục sát sinh, thì chúng ta tiếp tục sinh tử luân hồi, bởi vì chúng ta phải có mạng kiếp sau để đền lại. Đời này chúng ta giết nó, đời sau, đời sau nữa nó có thể quay lại nó tìm mạng chúng ta giết lại, bất kể chúng ta lúc bấy giờ là sinh vào loài nào, nó cũng tìm đến giết. Nếu chúng ta sinh làm trâu bò, thì người ta cũng giết con trâu con bò, sinh là con ruồi con muỗi nó cũng giết là con ruồi muỗi, nếu sinh vào làm người cũng bị người khác giết, đấy nhân quả, nó là như vậy, phải nhận thức được rõ cái chỗ này nếu không là chúng ta vẫn còn trù trừ trong cái chuyện là ăn chay ăn mặn, giết hay không giết, bởi vì chúng ta không hiểu rõ cái nhân quả của nó, cho nên là mới trở thành không tin lời Phật dạy, dù là thụ giới nhưng mà không có giữ được. Động cơ giết đầu tiên là do tham, cái trường hợp thứ hai nữa là do sân, có những người là do do tức giận cho nên không kiềm chế được dẫn đến giết người, chúng ta nhiều khi mà tức giận không kiềm chế được cho nên là có thể là giết các con vật, ví dụ bị con kiến nó cắn đau quá bực mình đập nó chết chẳng hạn, hoặc đang ngồi này có con muỗi nó cắn chúng ta không đuổi nó đi chúng ta vỗ đánh đốc thì nó chết, thì cái đó là giết do sân, sân giết, sân sát.
Cái trường hợp thứ ba là giết do si, do si mê. Hiện nay là là dân tộc việt nam chúng ta là giết do si nhiều lắm, ví dụ như là do tập tục tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ cúng thần thánh, cho nên là phải giết thịt các con vật để cúng, ví dụ là ngày mai giỗ bố là phải thịt con gà để cúng cũng chẳng hạn, nghĩ rằng là giết như thế là để cho bố mẹ ông bà về ăn, đó là si đấy. Thế rồi bảo là hôm nay là lễ đình lễ đền giết con con gà, con trâu, con bò để tế thần, để thần ban phúc cho, cái đó giết do si. Cái này Đức Phật đã nói trong Kinh đàn tế rồi, cái đàn tế mà tốt nhất là cái đàn tế không có máu và thịt của chúng sinh, chúng ta mà tế lễ cúng tế quỷ thần dùng máu thịt của chúng sinh tế lễ, thì như trong kinh Dược sư giới, giết hại chúng sinh cầu cúng quỷ thần mong cho ban cho được hạnh phúc, điều đó là không bao giờ có được, chúng ta giết hại chúng sinh mà cầu phúc cho mình là phúc nó tổn chứ làm gì mà có chuyện. Cho nên người ta giết cái trường hợp đó là giết do si. Vì thế chúng ta biết sát sinh đều bắt nguồn từ ba cái động cơ, do tham do sân do si. Thế rồi trộm cắp cũng vậy, những người trộm cắp do tham, nghèo đói dẫn đến trộm cắp, cùng quẫn dẫn dẫn trộm cắp, tham lam dẫn đến trộm cắp, nhưng mà có người là do sân đến trộm cắp, sân trộm cắp là không được ăn thì đạp đổ, cái này không phải ăn trộm đâu, phá hoại sự nghiệp của người khác. Người ta làm ăn đang phát phán đạt mình tìm cách để phá, bởi vì thấy người ta làm được mình không làm được thì tìm cách phá hỏng sự nghiệp của người ta, cái đó tuy rằng là mình không lấy tiền của họ nhưng mà trong giới trộm cắp thì kết cái tội này vào tội trộm cắp, cái đó do sân. Hoặc là tức giận và mà lấy của người ta phá, có những người mà nghèo thì ăn trộm thì còn tha thứ được, có người người giàu vẫn ăn trộm, mà càng giàu nhiều khi lại càng tham hơn, mà nhiều người mà con cái nhà giàu có hẳn hoi, nhưng mà nó a dua bạn mà đi ăn trôm, ăn cắp, chứ có phải là nhà nó thiếu tiền đâu, cái đó do si. Hoặc giả có dạng cho rằng là lấy được cái này lấy được cái kia thì là có phúc, cái đó một cái dạng si nữa. Tôi thấy nhiều cái lễ giáo người ta phản đối mà nó đúng thôi, cướp lộc chẳng hạn, lễ an vị tượng tranh cướp dấu rồi cướp tiền rồi cướp lộc, lộc làm sao mà cướp được, mà khởi cái tâm cướp đã là tội lỗi rồi, làm sao mà lấy được lộc, hoặc là bảo đến chùa, đến đền đình đến này chỗ khác lấy được cái này, cái kia thì có có phúc có lộc, trộm cắp làm sao mà có lộc được, khởi cái tâm trộm cắp làm sao có lộc được. Bắt đầu chuẩn bị đến tết rồi đến bẻ cây bẻ cối chùa ở đền bảo đi hái lộc, bẻ trụi hết hết cả cây lấy đâu ra lộc, phá hoại lấy đâu ra lộc. Những cái đó nó thuộc về trộm cắp, nhưng mà trộm cắp ấy nó do si, tức là do không hiểu biết ngu si mê muội, mê tín dẫn đến là trộm cắp. Trộm cắp là do tham ra sân do si. Đối với người Phật tử tại gia thì vì tôn trọng cái chuyện là gia đình một vợ một chồng cho nên Đức Phật cấm tà dâm, nhưng mà trong cái việc tà dâm này, thì ngay kể cả là vợ chồng chính đáng nữa, thì cũng phải tránh những cái ngày kiêng cữ. Trong luật trong giới có nói là ngày vía Phật bồ tát là không được sinh hoạt vợ chồng, ngày lễ ngày tết không được sinh hoạt vợ chồng, những ngày giỗ kỵ ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những ngày kỷ niệm trong gia đình là không được sinh hoạt vợ chồng. Những ngày trai giới, ví dụ như những ngày giữ bát quan trai chẳng hạn, hoặc những ngày trai giới trong Phật pháp chẳng hạn, những ngày đó không được. Hoặc là trong luật nói kỹ hơn là lúc hai bên mà thân tâm nó không được vui vẻ, nó không có sức khỏe, nó không có đủ khả năng làm chuyện đó thì không được miễn cưỡng, miễn cưỡng làm chuyện đó thì vẫn là phạm cái tội là tà. Chứ không phải là quan hệ ngoài vợ chồng mới là tà dầm, ngay trong trong quan hệ vợ chồng mà không chính đáng, không đúng nơi không đúng lúc không đúng chỗ, Đức Phật vẫn ngắn cấm. Bởi vì chúng ta biết rằng là trong kinh Lăng nghiêm có nói là gốc của sinh tử luân hồi dâm dục là đứng đầu, còn có chuyện đó là còn sinh tử luân hồi, điều đó là chắc chắn. Trừ bao giờ tu hành đoạn được cái đó mới có thể ra được khỏi sinh tử, mới ra khỏi được dục giới thôi, thế còn sắc giới, vô sắc giới nữa. Cho nên, sở dĩ chúng ta sinh ở cõi dục là nó do mắc vào cái đó, nhưng mà đối với Phật tử tại gia thì cấm cái tà này, tức là không chính đáng, và tà dâm nó cũng có ba cái lý do gọi là mua bán dâm bên ngoài cũng do tham dục, do sân hận, do si mê để dẫn đến. Cái thứ tư là nói dối thì trên bốn phương diện, nói với lưỡi hai chiều, nói dối nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, thì động cơ của nó là cũng là do tham sân si, nói để lừa gạt người khác để kiếm lợi cho mình là do tham, nói ác khẩu là do sân, thêu dệt vọng ngữ này  là do si. Những thứ này có động cơ của nó, cho nên là sở dĩ nói lại năm giới này, bốn giới này, động cơ căn bản của nó đều là do tham, sân, si hết, mà chúng ta biết rồi ngày nào chúng ta cũng đọc cái bài sám hối- giai do vô thủy tham sân si, thì nhận thức ra cái gốc của sinh tử luân hồi là tham sân si, tham sân si nó mới tạo ra năm thứ tội lỗi, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, và do đó nó mới dẫn đến nguyên nhân chúng ta bị đọa lạc trong địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Học Phật là Đức Phật bảo chúng ta giữ các điều giới này để chúng ta đóng được cửa địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, và đóng được cửa ngã quỷ súc sinh thì chúng ta mới có cơ hội, có nhân để trở lại làm người. Cho nên mới nói năm giới này là năm tiêu chuẩn đạo đức để thành tựu được nhân cách, nhân cách đấy là tư cách làm con người xứng đáng, và những điều như sách đều phân tích là đấy, vì tôn trọng sự bình đẳng, vì sợ nhân quả vì tránh hậu quả kiếp sau. Chúng ta phải biết cái sâu xa của những thứ này, động cơ mà thúc đẩy tạo nên chuyện đó đều do tham sân si, mà tham và sân thì là cái gốc của nó do si, si là không hiểu biết không nhận thức, do đó để chúng ta học Phật để nhận thức. Khi mà có nhận thức được chân chính, cho nên bát chính đạo là chính kiến, chính tư duy thì nó sẽ phá được vô minh này, si này. Và khi mà chúng ta đã hiểu được rõ như thế thì chúng ta sẽ kiềm chế kiểm thúc và kiểm soát được, hóa giải được tham sân. Gốc của tu năm cái giới này là thành tựu cái chuyện đó. Giới thứ năm là giới uống rượu, sở dĩ là đây mới là trí tuệ của đạo Phật, chúng ta thấy rằng tất cả các tôn giáo khác người ta đều dùng rượu là phương tiện ấy để cúng tế thần linh, cho nên người tại gia người ta nói vô tửu bất thành lễ. Lễ là phải có có rượu, không có rượu là không thành lễ, các tôn giáo khác người ta cũng sử dụng rượu như là một cái phương tiện để tiếp xúc với với quỷ thần, cho nên các cái lễ vật dâng lên là chư thiên rồi quỷ thần kể cả bên công giáo vậy, đều là có dùng rượu hết. Rồi cái đạo tiên người ta uống rượu thành tiên tửu. Tất cả các tôn giáo khác ngoài Phật giáo duy chỉ có Phật giáo là cấm rượu thôi, không cho uống. Chúng ta biết rằng đạo Phật là đạo của trí tuệ, mà rượu chính là gốc của nó là si, tức là dẫn đến mê uống rượu vào nó say, cho nên là mê nó thất mất bản tính. Trong kinh dẫn một câu chuyện một vị ưu bà tắc này, uống phá giới rượu thì phá luôn cả bốn giới còn lại. Vị ưu là tắc đã thụ tam quy ngũ giới, rồi một hôm đi làm đồng về rồi trong lúc khát nước nhìn thấy một cái chai nước trong để trên bàn cứ tưởng là chai nước uống, cứ thế là dốc và uống, thế trong cái lúc khát như thế là không phân biệt được, uống hết cả chai nước thì hóa ra lúc bấy giờ rượu nó đã ngấm rồi. Thế thì uống rượu rồi thì bắt đầu say đói nghĩ đến ăn, bây giờ có con gà hàng xóm nó đi nó chạy lạc sang, thì lập tức là bắt con gà giết thịt để ăn. Bắt con gà là phạm tội ăn trộm, giết nó ăn hay là phạm tội sát sinh, thế là phá thêm hai cái giới là sát sinh và trộm cắp. Thế rồi người phụ nữ hàng xóm người ta sang người ta tìm gà trong lúc đang say như vậy thì háo sắc, phá thêm cái giới là tà dâm. Khi mà bị bắt lên tra hỏi này khác vẫn nói dối quanh thế là phạm thêm cái tội nói dối. Đấy uống một chén rượu, uống một chai rượu, tất cả các giới khác đều phá, cho nên trong kinh mới nói là rượu có ba mươi sáu thứ lỗi, uống một chén rượu uống một hớp rượu nó sinh ra ba mươi sáu thứ tội lỗi, trong kinh có liệt kể kê đủ. Cái này lần trước chúng tôi đã giải thích từng từng điều một rồi, và rượu nó tương ứng với với địa ngục, rượu nó tương ứng với ngã quỷ, rượu nó ứng với súc sinh, cho nên đây là năm cái điều giới mà chúng ta phải nhận thức được cái bản chất của nó. Đã thụ tam quy là phải giữ gìn năm giới. Nhưng hiện nay ở Phật giáo Việt Nam rất lạ, nhất là Bắc truyền, nhiều người chỉ có thụ tam quy thôi mà không thụ ngũ giới, cho rằng thụ tam quy một thời gian sau mới mới giữ ngũ giới, hoặc giả các phương tiện là giữ một giới trong năm giới, giữ hai giới trong năm giới, giữa ba giới trong năm giới. Thực ra thời Đức Phật còn tại thế và ngay từ đầu là đã thụ tam quy phải thụ ngũ giới, tam quy ngũ giới nó đi liền với nhau, và như thế mới được gọi là ưu bà tắc, tức là nam giới. Cũng như thế mới được gọi là ưu bà di thuộc về nữ giới. Ưu bà tắc là cận sự nam và ưu bà di là cận sự nữ. Cận sự là gì, những người nam giới sống gần với Phật pháp, chúng ta giữ tam quy ngũ giới là chúng ta đang tiến gần vào con đường giải thoát ra ngộ, đang sống gần với cái đời sống của cái bậc thánh, và nếu mà chúng ta giữ gìn tam quy bát quan trai giới là chúng ta một ngày một đêm, giữ gìn giới luật của bậc thánh. Bát quan trai là đời sống thanh tịnh của một vị A la hán, cho nên chúng ta mà thụ tam quy bát quan trai giới một ngày một đêm là chúng ta đang thực hành cái hạnh sống một ngày thanh tịnh, giống như một vị xuất gia, giống như một vị A la hán vậy. Còn tam quy ngũ giới là cận sự, tức là thân gần phục vụ Tam Bảo và sống gần với Tam Bảo gọi là cận sự nam cận sự nữ. Chứ không có cái chuyện là chúng ta chỉ có thụ tam quy không thôi.
Thứ hai, trở lại vấn đề tam quy, chúng tôi có nhắc lại một câu là trong khi thụ tam quy là chúng ta có ba điều hứa, tại vì hôm trước là các vị có hỏi như hôm nay nhân tiện tôi tôi nói lại. Con đã quy Phật rồi nguyện trọn đời không quy y tà ma ngoại đạo, con quy pháp rồi nguyện trọn đời không đọc tụng kinh điển của tà giáo ngoại đạo, con đã quy tăng rồi nguyện trọn đời không đi theo thầy tà, bạn ác. Trong tam quy còn có ba cái vấn đề nữa nó liên quan đến ngũ giới. Như hôm trước có có vị đặt vấn đề rằng, vậy thì chúng con theo đạo Mẫu hoặc giả bây giờ chúng con quy y Phật rồi, chúng con có còn theo được đạo Mẫu nữa không, và đây là thực tế. Phật tử miền Nam thì ít, nhưng mà miền Bắc thì phần lớn, nhiều người là con nhang, nhiều người là có đồng bóng, nhỡ khi trình đồng mở phủ rồi mới đi quy y Tam Bảo, nếu bỏ bên này mà theo bên kia, thì lại sợ rằng là thế này hay thế kia, rất nhiều những vấn đề xảy ra. Nhưng nếu căn cứ vào vào trong điều luật nói là đã quy Phật là không được quy tà ma ngoại đạo, tại sao lại là quy Phật rồi không được quy Mẫu, chúng ta lễ Mẫu thì được, Phật không có cấm, nhưng mà quy y thì không được, quy y là nương tựa. Chúng ta phải hiểu chữ quy y là nương tựa, nếu mà chúng ta đã thụ tam quy ngũ giới rồi mà chúng ta còn hầu đồng bóng là không được, cái này là rõ ràng. Nhưng lễ thì vẫn được, cái chuyện là kính bái quỷ thần, kính bái ông bà, cha mẹ đó là thuộc về đạo đức, nhưng mà quy y thì nó lại trở trở thành một chuyện khác, bởi vì chúng ta biết rằng là Phật là cái bậc trí tôn vô thượng trong tam giới rồi, không còn ai cao hơn nữa, thế mà chúng ta đã quy y Phật rồi mà chúng ta lại quy y thánh Mẫu chẳng hạn, thánh Mẫu thấp hơn Phật nhiều. Hôm trước tôi nói đấy nó chỉ là thánh thế gian thôi, chúng ta bỏ cái chỗ cao mà chạy theo chỗ thấp thì nó thành cái gì đây. Đồng ý là chúng ta quy y cả Phật cả thánh cũng được, bảo thánh cũng dậy điều tốt. Thực ra thờ Mẫu thuộc về tín ngưỡng, không phải là tôn giáo, nó không có giáo điều, không có kinh điển, những điều Mẫu dậy chẳng qua là chuyện là phán truyền của chuyện đồng bóng thôi, chứ không có những các cái lời răn dạy như là kinh điển của Đức Phật được, và dù cho những cái lời răn ấy thế nào thì nó cũng thuộc phạm vi của sinh tử luân hồi, nó không ra khỏi chế cái phạm vi ấy được, cho nên chúng ta đã quy y với Đức Phật là quy y với cái bậc cao nhất rồi, thì không có lý gì mà chúng ta bỏ cái cao chúng ta đi theo cái thấp. Đấy là lý thứ nhất, thứ hai nữa là các vị thần thánh ấy là nó còn nằm trong phạm vi của sinh tử, không phải là các bậc thánh ra khỏi sinh tử, và thứ ba nữa là cái nghi thức mà phụng thờ các vị ấy chúng ta biết rồi như hôm trước tôi nói, là phải phát sinh là phải cúng tế rượu thịt, và tất những cả những cái đó đều vi phạm giới luật Đức Phật quy định hết. Những chuyện hầu đồng là phải truyền phán thì nó vi phạm vào cái điều giới mà Đức Phật nói là liên quan đến phàm nhân nói lời thánh, cho nên là những cái đó nó dẫn đến chuyện là vi phạm. Những cái chỗ này là chúng ta phải phải hiểu rõ vì thế mới nói rằng là trong các chùa vẫn có thờ mẫu, để phục vụ tín ngưỡng cho người dân, chứ không phải là các chùa ấy thờ hoặc là bắt buộc là các Phật tử phải theo – không phải. Chúng ta đừng có nhầm lẫn giữa tín ngưỡng dân gian và quan điểm giáo lý của Đức Phật, cho nên tín ngưỡng dân gian là ở dân gian ở miền Bắc này có những vùng có, có vùng không có. Miền Trung, miền Nam các chùa người ta có thờ Mẫu đâu. Nhưng mà đấy là phong tục tập quán, phong tục tập quán ở đâu thì theo ở đó, thì cái đó không phải bắt buộc. Chính vì vậy cho nên là khi mà chúng ta đã học Phật là chúng ta phải hiểu rõ quy y Phật là không được quy y tà ma, ngoại đạo. Đối với với Đức Phật là chí tôn rồi thì không còn có lý gì mà chúng ta bỏ chỗ cao mà theo chỗ thấp cả. Tôi nói một ví dụ thứ hai- Bảo là con theo cả Phật theo cả Mẫu, đồng ý chúng ta theo cả Phật cả Mẫu, vậy thì tôi hỏi những vị là các vị theo mẫu thì mai cái chết các vị đi đâu. Theo Phật thì cầu về Tây phương Cực lạc, cầu vãng sinh hoặc là cầu về thế giới của chư Phật hoặc trở lại kiếp sau, vậy bây giờ là đi theo đạo Mẫu thì Mẫu là dẫn các vị đi đâu? Giống như là một người mà hai chân dẫm vào hai thuyền, mà hai cái thuyền thì đi hai cái hướng khác nhau, Phật là phải đi hướng về Tây phương, còn Thánh thì đi lại hướng thế gian, mà giống như một người mà hai chân dẫm là hai cái thuyền, mà hai cái thuyền đi hai hướng thì các vị sẽ biết được nó chúng ta cái thân chúng ta rơi vào đâu, nó rơi xuống biển, rơi xuống xuống ao hồ. Bởi vì tâm chúng ta không có quyết định về chỗ nào cả, Phật cũng theo, thánh cũng theo, rồi đến lúc cuối cùng lâm chung không biết là lúc bấy giờ chúng ta theo ai, và lúc bấy giờ không biết theo ai thì Phật cũng chẳng cứu được, thánh cũng chả dẫn dắt được, bởi vì các vị thánh Mẫu không có khả năng dẫn dắt cái chỗ này. Đấy là chúng tôi nói đến cái chỗ rốt ráo đấy, giống như người mà hai chân dẫm hai cái thuyền, mà hai cái thuyền đi về hai hướng, là cái này là rõ ràng, đạo Phật, đạo Thánh không thể đi chung một đường, hai con đường khác nhau. Vì đạo thánh là cái đạo của thế gian, nó trở lại nhân gian, còn đạo Phật là đạo xuất thế gian, hai cách khác nhau. Và như thế là còn không được theo thầy tà, bạn ác. Chúng ta mà không cẩn thận thì ngay cái những cái chuyện đó chúng ta đã vi phạm vào trong cái vấn đề liên quan đến tam quy này rồi, những cái lời hứa khi mà chúng ta đã đã thụ trì rồi, cho nên những cái điều này là là đối với các Phật tử chúng ta đấy, nếu có những vấn đề liên quan là phải hiểu hết sức rõ ràng. Những điều đó là tín ngưỡng dân gian, không ai cấm các vị theo, nhưng mà theo là do tự nguyện của chúng ta, theo cái gì nó có một thứ thôi, chứ không thể một người mà theo hai ba thứ, cũng giống như một người không thể là theo hai ba tổ chức cùng một lúc được cả, nếu anh đã là là kết nạp đảng cộng sản anh không thể là theo đảng dân chủ được nữa, nó chỉ cho anh kết một thứ thôi. Mỗi một đảng nó có một tư tưởng, mỗi một đảng phái nó có một chủ nghĩa, lẽ sống riêng, đảng nào anh cũng theo thì rút cục là cái tư tưởng của anh lộn xộn, anh không biết là anh đang sống theo tư tưởng nào. Bây giờ chúng ta Phật cũng theo, Thánh cũng theo thì không biết là chúng ta sống theo tư tưởng của Phật hay sống theo tư tưởng của Thánh. Rốt cuộc là chúng ta định hướng cái cuộc đời này của chúng ta đi đến cái đích ở chỗ nào, giống như đi hai con đường, hai con đường có hai lối. Hai con đường này nó không chung về một đích, chúng ta đi hai đường thì không biết là đi thế nào, mỗi chân đi một đường sao, không có. Thế nên là chúng tôi đã nói các quan điểm rõ ràng, đối với các vị thần thánh ở thời gian là kính nhi viễn chi, không bao giờ chúng tôi phản đối, không bao giờ phỉ báng, tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân, nhưng ở đây đối với tư cách một người Phật tử là chúng tôi phải nói rõ cái vấn đề này, không có rồi chúng ta cũng mù mờ rồi bảo là thôi bên Thánh cũng vái, bên Phật cũng kính, thế rồi nói câu Phật thì từ bi, thánh một ly cũng chấp. Phật đã từ bi mà thánh một ly cũng chấp, nếu mà cái gì cũng chấp thì không phải là thánh nữa rồi. Thánh là phải siêu việt thế gian, nếu mà cái gì cũng chấp thì người thấy người thế gian sân si tật đối với cái gì cũng chấp, cho nên nhiều khi là ngay bản thân các vị theo thần theo thánh, nhưng mà các vị lại nói những cái câu phỉ báng cả thần thánh. Nói là Thánh một ly cũng chấp, thế thì ông thánh thành ra trẻ con à, nếu mà cái gì cũng chấp thì thành ra sân si. Tôi nhiều lần đã nói những người theo thờ thánh mà nói cái câu đó là các vị đang phỉ báng thần thánh. Thiên địa vô tư, Thánh là sáng cùng với nhật nguyệt, mới gọi là Thánh, rồi đạo đức sánh ngang với trời đất, mới gọi là Thánh. Nhưng mà Thánh cái gì cũng chấp thì đâu còn là Thánh nữa. Cho nên là chính người ta làm những chuyện này chuyện khác rồi, người ta lại cứ vin vào người ta đổ tội cho ông Thánh, ông Thánh thì chẳng mở miệng ra mà nói chuyện đó được, cứ im thành ra người ta bảo là ông thánh hay chấp. Một ly cũng chấp cái gì cũng chấp, nếu cái gì cũng chấp thì người đời chúng ta cũng còn tha thứ cho nhau được, còn bỏ qua việc này việc kia không chấp, không đến nỗi một ly cũng chấp uống hồ là ông thánh. Đấy những người theo đạo Thánh là cứ mở miệng ra là nói là Thánh một ly cũng chấp. Thánh không có chấp, thực ra đối với chúng ta theo đạo Phật cũng vậy, Đức Phật không có trách phạt một người nào cả, chúng ta làm nên tội là chúng ta chịu quả báo, chứ cái đó không phải là trời giáng tội, cũng không phải là Phật giáng tội chúng ta. Ví dụ như là chúng ta đã thụ tam quy ngũ giới rồi, mà chúng ta sát sinh thì chúng ta gặp quả báo của việc sát sinh. Cái đó đâu phải là Phật phạt, đâu phải là Bồ tát phạt, đâu phải là ông Thánh ông ấy phạt mà đổ tội cho Phật với Thánh, cũng giống như là một người là phạm tội bị nhà nước người ta xử phạt, đâu phải là nhà nước xử phạt cái đó là nhân quả xử phạt, bản thân họ tạo tội thì họ phải gánh chịu trách nhiệm, và nhà nước là nhân danh công lý để thực hiện cái cái luật nhân quả với họ. Nói rõ như thế chứ không phải ông tòa án ông ấy phạt, cũng không phải là ông nhà nước ông ấy phạt, nhiều khi chúng ta hiểu nhầm. Thực ra cái đó là nhà nước thực hiện luật nhân quả, nói đúng là như vậy. Không ai phạt ai cả,  bảo là tại làm như thế cho nên là ông thánh ông bắt tội, không, ông thánh ông bắt tội, chúng ta làm sai là chúng ta tự chịu tội, cái nói nhân quả, không có ông thánh thì chúng ta vẫn phải phải chịu cái tội đó, đừng có đổi tội cho ông thánh, mình làm sai là mình chịu chịu cái quả báo cho mình tự tạo ra, chứ có phải là Phật của phạt mình đâu, mình nói như thế là mình đổ tội cho Phật, mình đổi tội cho cho các vị ấy. Cái sai là của mình đã sai rồi mình lại còn sai thêm, tức là mình si, mình đã hiểu nhầm nhân quả, cái này các vị phải hiểu cho nó rõ ràng về vấn đề đó, cho nên tất cả những cái vấn đề gì mà Đức Phật dạy, nó liên quan đến nhân duyên sinh. Do có nhân, do có duyên nó mới có quả, mà tất cả nó đều là nằm trong cái quy luật của nhân duyên quả, không ra ngoài quy luật này. Và chúng ta học Phật là phải để biết rõ cái chuyện đó, tự chịu trách nhiệm.
Thế còn nói đến chuyện bàn dông dài một chút, những cái người mà gọi là có căn, tôi đây là phiếm luận thôi, chứ không phải căn cứ Phật pháp. Bảo là có căn, đồng ý là có căn, người nào người không có căn? Đức Phật nói con người ta có sáu căn, không phải là mắt tai mũi lưỡi là căn đâu, tam thiện căn tam ác căn. Tham, sân, si, ba cái này là căn. Căn là gì là, cái gốc rễ tạo nên sinh tử luân hồi. Còn ba cái thiện căn là vô tham, vô sân, vô si, ba cái này làm cho người ta siêu xuất sinh tử luân hồi, đấy chính là căn. Tôi nói ví dụ, một người theo đạo Thánh mà có căn ông Hoàng mười chẳng hạn, đồng ý là các vị có căn ông Hoàng mười, căn ông Hoàng mười thì tôi cái cách giải thích của tôi là thế này. Kiếp trước hoặc rất nhiều kiếp trước các vị cũng từng có địa vị, tức là căn đấy là giống ông Hoàng mười, hoặc là hành trạng của các vị, đời sống của các vị giống như ông ấy, cho nên là đời này sinh ra là có cảm tình, thì đó chính là gọi là căn, gọi là các ngài chấm đồng. Thế thì nhưng mà ở đây phần lớn các vị không hiểu ra một vấn đề, rằng ừ, nếu các vị có căn của ông Hoàng thì rõ ràng kiếp trước hoặc nhiều kiếp trước các vị đã làm ông Hoàng, nhưng tại sao đời này kiếp này các vị lại sinh làm một người bình thường như vậy, trở thành một người dân bình thường hoặc trở thành một người nghèo khó. Tại sao, là do nhân quả của các vị đã tạo kiếp trước mà các vị đã làm mất phúc của ông Hoàng đó, mà bây giờ trở thành một người bình thường. Thế thì các vị phải nhận thức được rằng mình đang rất là kém mình đang rất là tệ hại, và mình phải tu thế nào để cho mình khôi phục lại được cái căn đó, tức là tu là thế nào để kiếp sau có thể thành ông Hoàng thật, chứ không phải là chỉ là cái bóng của ông Hoàng ở đời này, cái đó chúng mới là hiểu đúng.  Các vị có căn của ông hoàng, bà chúa thì các vị chỉ đóng được ông hoàng bà chúa trong cái lúc các vị nhảy múa thôi, còn lúc ra ngoài đời các vị vẫn là người bình thường, đấy là các vị có căn. Có căn, căn tức là các vị sống lại với cái gì đã ở quá khứ, đấy là chính là căn. Quá khứ có thể là các vị là ông hoàng bà chúa thật, nên là trong cái tâm thức của các vị có cái tâm thức ông hoàng bà chúa, là như thế bởi vì sinh tử luân hồi vô lượng kiếp là cái chuyện đó nó có thể xảy ra. Nhưng mà có một cái điều mà những người mà theo cái chuyện đó nó không thức tỉnh được, tại sao đời trước kiếp trước mình có căn ông hoàng bà chúa, mình làm ông hoàng bà chúa tại sao đời này mình lại trở thành nông dân, trở thành người tầm thường, vì cái phúc của mình nó kém đi. Nếu đời này kiếp này mà mình không tu cái phúc ấy nữa thì cái phúc ấy nó lại càng kém nữa, và làm thế nào để trở thành ông hoàng bà chúa thì phải học Phật, Phật mới chỉ cho chúng ta làm thế nào để nó trở thành những người như thế được. Chứ không phải là chúng ta là hầu hạ ông hoàng bà chúa mà chúng ta trở thành ông hoàng bà chúa đâu, và phải lại phải tu cái nhân ông hoàng bà chúa thành ông hoàng bà chúa, để trở thành một cái người mà ngồi trên muôn người được mọi người cung phụng thì Đức Phật nói là phải hạ thấp mình xuống để phục vụ muôn người, đời này để có một người một ngàn người ta phục vụ mình thì mình cũng phải có phục vụ được một ngàn người khác, thì còn có một người ngàn người ta phục vụ lại, tôi nói ví dụ bây giờ một người làm vua hoặc một người đứng đầu lãnh đạo đất nước Việt Nam chín mươi triệu dân, có chín mươi triệu người người ta phục vụ anh, tức là người ta tuân thủ anh ấy, thì anh ta phải có rất nhiều đời nhiều kiếp để phục vụ được chín mươi triệu người, thì hỏi một đời chúng ta làm cái gì để phục vụ được bao nhiêu nghìn người, thế thì để phục vụ được chín mươi triệu người thì phải có một trăm kiếp, một ngàn kiếp. Tu một trăm kiếp tu một ngàn kiếp mới có một kiếp làm vua, mà cũng một kiếp làm vua chỉ nhanh chóng trong vài năm. Đấy chúng ta thấy là như vậy, thì ông hoàng bà chúa cũng vậy, để mà làm ông hoàng bà chúa một đời phải tu bao nhiêu đời, cho nên hết cái đời đó nó hết phúc nên là chúng ta thành người thường, lang thang trở thành những người ấy, cho nên thỉnh thoảng hồi ức lại kiếp trước thì gọi đó là căn đấy, căn chính là cái chỗ này. Nhưng mà phải hiểu rõ vấn đề ở cái chỗ đó, phải thức tỉnh làm thế nào để chúng ta quay trở lại, còn giữ gìn tam quy ngũ giới, giữ gìn thập thiện thì không phải là chúng ta trở thành ông hoàng bà chúa ở kiếp sau đâu mà có thể là sinh lên cõi trời, có thể làm cả ngọc hoàng, đại phạm thiên vương mà, có thể làm cả các vị gọi là mậu, không phải là làm những người bình thường, bởi vì những người đó đều là do những người anh hùng hào kiệt làm ra, kể cả các bậc thánh như là thánh trần này khác các thứ đều là do những người khí phách, con người bình thường, mà chúng ta tu theo Phật thì không cứ là là chỉ làm những các bậc thánh nữa đâu, mà làm cả bồ tát làm cả Phật. Vì tu theo Phật là coi là cái đích cuối cùng để thành Phật, còn Phật còn làm được huống gì là làm các vị thánh ấy, vị thánh ấy có gì mà không làm được, bởi vì đó là thánh thế gian có gì không làm được. Thánh xuất thế gian chúng ta còn có thể chứng được, bồ tát chúng ta còn có thể làm được, Phật còn có thể làm được, huống hồ là các bậc có gì không làm được, nhưng mà muốn làm được cái đó, nền tảng của nó đã nói rồi, phải từ tam quy ngũ giới. Đây là cái nấc thang đầu tiên, và bài căn bản là đầu tiên làm người không có tư cách làm người làm gì có tư cách làm đệ tử của Phật, không có tư cách làm người làm gì có tư cách để làm Thần làm Thánh. Không có tư cách làm người làm gì có tư cách làm Trời, và cao hơn làm gì có tư cách là làm A la hán, làm Bồ tát làm Phật. Cho nên chúng ta bắt đầu ở bước đầu tiên xuất phát điểm của ta là học tư cách làm người, mà học tư cách làm người là thụ trì tam quy ngũ giới, không có cách nào khác. Ngoài thế gian, đạo Nho ngày xưa người ta gọi là là tam cương ngũ thường, nhưng mà tam cương ngũ thường của đạo Nho nó thấp lắm, cái tiêu chuẩn của nó thấp, không thể sánh với cái tam quy ngũ giới của đạo Phật được, cho nên một số người đồng nhất với cái tam cương ngũ thường của Nho giáo với cái tam quy ngũ giới của đạo Phật. Tôi không đồng ý với quan điểm đó, bởi vì trí tuệ của Đức Phật siêu việt, nó không phải như là suy nghĩ cái luân thường đạo lý của thế gian, tam cương ngũ thường đó nó là đạo đức thế gian thôi, nhưng tiêu chuẩn tam quy ngũ giới của Đức Phật, tuy rằng nó là đạo đức nhân cách, nhưng là nhân cách siêu việt, tam cương ngũ thường thế gian mà vẫn ăn thịt vẫn uống rượu, ngũ giới của chúng ta là không có chuyện ăn thịt uống rượu. Cái đó nó khác biệt. Cho nên ở đây là với cái cái chỗ này là mong rằng là các Phật tử chúng ta học Phật là chúng ta phải hiểu rõ vấn đề, hôm nay là mồng sáu rồi ngày mai ngày mốt là ngày mùng tám tháng chạp, chúng ta kỷ niệm ngày Đức Phật thành vô thượng chính đẳng chính giác, thì chúng tôi cũng mong rằng là các Phật tử chúng ta dành thời gian để tu tập trong những ngày này chúng ta có thể tụng kinh Chuyển pháp luân, hoặc là kinh Bát đại nhân giác, tức là tám điều giác ngộ của Phật, Bồ tát, để ôn lại nhớ lại công hạnh của Đức Phật và chúng ta làm thế nào để cũng có thể là trong đời này kiếp này cũng được giác ngộ cái điều đó, gieo vào trong tâm thức của chúng ta cơ hội bồ đề chủng tử vĩnh viễn không mất. Cũng xin gửi lời cầu chúc tất cả các quý vị Phật tử chúng ta được bình an hạnh phúc trong ánh từ quang của Đức Phật nhân ngày kỷ niệm Đức Phật thành đạo và mong rằng chúng ta hãy nỗ lực tinh tiến tu hành nương tựa vào chính mình, nương tựa vào pháp vào luật của Đức Phật.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

A Di Đà Phật.

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 4: QUY Y TAM BẢO ( Phần Tiếp Theo )

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 16.01.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
Ý NGHĨA NGÀY ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN – BUỔI 17
Ý NGHĨA NGÀY ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN – BUỔI 17
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – Ý NGHĨA NGÀY ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN – BUỔI 17 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTub...
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 36
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 36
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 36 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
Được xem nhiều