LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 7 : THỜ PHẬT – LẠY PHẬT – CÚNG PHẬT

BÀI 7 THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT 

Kính thưa đại chúng sau ba tuần nghỉ tết, hôm nay chúng ta quay trở lại học môn phật pháp căn bản. Chúng ta học tiếp bài thứ Bảy nói về việc thờ Phật, lạy Phật cúng Phật-  xin mời các vị nào phát tâm chúng ta đọc bài.

Kinh văn:

A. MỞ ÐỀ

Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với quốc gia, xã hội đều được tôn sùng, ngưỡng mộ. Sự tôn sùng ngưỡng mộ này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là lòng tri ân và sự mong muốn được noi theo gương sáng. Tục ngữ có câu: “Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, Uống nước phải nhớ người đào giếng”. Lòng tri ân là một đức tính quí báu, mà những người có chút công bằng không thể thiếu được. Một xã hội gồm những phần tử phi ân bội nghĩa, ăn cháo đá bát, không có thể tồn tại được lâu dài, vì nó làm chán nản những kẻ có lòng, và làm khô cạn nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều tốt, người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà không tránh xa, thì con người ấy là người thiếu căn bản đạo đức, thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ.

Vì những lý do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với làng xóm, thì được làng xóm tôn thờ, kẻ có công với quốc gia, dân tộc, thì được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có công đức với nhân loại, thì được nhân loại sùng thượng.

Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những lý do đã kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có tính cách thường trực và thiết tha hơn, vì các vị giáo chủ là những bậc có công ơn lớn đối với nhân loại và là những gương sáng mà tín đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt để soi sáng đời mình. Trong các vị giáo chủ, thì đức Phật là vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ ở đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật.

Giảng giải chi tiết:

Kính thưa đại chúng, nội dung bài này nói về thờ Phật, lạy Phật, lễ Phật và dâng cúng Phật như thế nào cho đúng. Trước khi mà vào nội dung chính, phần mở đề chúng ta đã thấy dẫn dắt thờ phụng là để biểu thị tôn sùng những người có công, và Đức Phật là người có ơn lớn với chúng sinh cho nên chúng sinh tôn thờ. Thực ra chúng ta thấy rằng tôn thờ là biểu thị của hai dạng, một là tín ngưỡng, hai là tôn giáo. Cho nên trong các tập tục tín ngưỡng xưa nay, người ta có rất nhiều đối tượng thờ cúng, như thờ Trời, thờ Đất rồi cho đến kể là thờ ông Táo, Bình vôi rồi thờ Cây đa vân vân đều thuộc dạng thờ cúng cả. Đó là thuộc dạng tín ngưỡng thờ cúng. Dạng thứ hai là tôn giáo thờ cúng, các đối tượng thờ cúng của các tôn giáo là các vị giáo chủ hoặc những người khai đạo mở đạo, giảng giải đạo. Nếu xét về căn bản, Phật giáo không phải là một tôn giáo, trong cái bài đầu tiên chúng tôi đã nói rồi, Phật giáo căn bản không phải là một tôn giáo, nhưng ngày nay thì nó trở thành một tôn giáo, bởi vì có đầy đủ các điều kiện người ta coi đó là một tôn giáo. Một tôn giáo người là như thế nào, là có giáo chủ và Đạo Phật thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ. Thứ hai là có hệ thống giáo lý, giáo luật- Phật giáo có giao lý, giáo luật. Thứ ba là có hệ thống tu sĩ, tức là có những người tu sĩ. Và thứ tư là có hệ thống tín đồ. Và tất cả những điều kiện đó đã đáp ứng Phật giáo trở thành một tôn giáo. Năm nữa nữa là có các cái cơ sở thờ tự. Năm điều kiện này thì hoàn toàn thấy phật giáo là tôn giáo. Nhưng điều căn bản ban đầu Đức Phật nói rồi, tôn giáo là một cái dạng niềm tin vào một đối tượng mà các đối tượng ấy hoặc là nhất thần, hoặc đa nguyên, đa nguyên tức là dạng đa thần. Trong sự thờ cúng của của tôn giáo ấy, người ta coi các đối tượng thờ cúng là những các vị thần ban phúc giáng họa, hoặc là chủ trương nắm quyền liên quan đến sinh mạng, hạnh phúc hay đau khổ của những tín đồ mà đang thờ phụng. Thực tế chúng ta biết rằng Đức Phật không phải là đối tượng thờ cúng theo cách này, bởi vì đức Phật không phải là một vị thần, theo cái cách suy nghĩ của người đời, tức là có khả năng tức là ban phúc giáng họa, hoặc là nắm giữ sinh mệnh, hay là vận mệnh của tất cả chúng sinh, Đức Phật không nắm vận mệnh của bất kể một chúng sinh nào cả. Đức Phật không chủ trương ban phúc giáng họa, vậy thì chúng ta thờ Phật ở đây để nhằm đến các mục tiêu mục đích gì? Sở dĩ chúng tôi nói điều này là đầu năm các chùa, các tín đồ phật tử chúng ta đều đi lễ đền, lễ chùa và nó tạo thành một phong trào, tức là bất kỳ chỗ nào thờ cúng là người ta đều đi lễ hết, kể cả chúng ta là tín đồ phật tử cũng đi như vậy, ngoài lễ chùa ra rồi đi lễ đền, lễ phủ. Lễ để cầu bình an, cầu sức khỏe, cầu giàu có, cầu quan chức, tất cả những cái đó người ta đều cầu vậy. Đức Phật có ban cho chúng ta được những thứ đó không? Nếu Đức Phật đã không ban được thì tại sao chúng ta cầu, tại sao chúng ta thờ? Nội dung bài này chúng ta phải làm rõ vấn đề như vậy. Đức Phật từng tuyên bố là ta không phải là thượng đế để ban phúc giáng họa cho chúng sinh, ta chỉ là bậc Thầy biết con đường và chỉ cho chúng sinh một con đường. Chúng ta biết rằng Đức Phật là con người lịch sử, nhân vật lịch sử. Ngài chỉ là người khám phá ra chân lý, Phật có ra đời hay không ra đời thì chân lý đó vẫn tồn tại.  Phật có ra đời hay không ra đời, chúng ta có theo Phật hay không theo Phật thì nguyên lý của nhân quả vẫn cứ vận hành, do đó ngay từ khi Đức Thế Tôn còn sinh thời, ngài đã không chấp nhận những cách mà thờ cúng của ngoại đạo như tổ chức các đàn tế, các đàn cầu nguyện, rồi các chuyện hiến tế và trong các đàn tế đàn cầu nguyện ấy, người ta đã mệnh danh Thiên Đế, Thượng Đế để sát sinh, để hại vật và lấy các vật đó làm vật cúng tế thần linh. Do vậy, có câu chuyện chúng ta đã cũng đã từng nghe đấy, đức Phật một hôm cùng với chư tăng đi đến sông Hằng và lúc bấy giờ có rất nhiều ngoại đạo đang đứng cầu nguyện ở bên sông Hằng. Người ta cho rằng con sông đó là con sông linh thiêng, mỗi khi cầu vào sáng sớm như vậy người ta xuống dòng sông đó để tắm rửa người ta và cho rằng người ta sẽ nhờ cái sự linh thiêng của sông Hằng đó gột sạch được tội lội. Và đức Phật muốn chỉ rõ một nguyên lý cho chúng đệ tử. Ngài mới nói với mọi người rằng phải cầm một viên đá ném xuống nước và yêu cầu đại chúng là đứng ở bến bờ sông cầu nguyện cho hòn đá nổi lên, và mọi người nói rằng là bạch Thế Tôn ấy không thể làm như thế được, tức là không có cách gì cầu nguyện mà hòn đá ném xuống nước nó phải chìm, không ai cầu nguyện cho nó nổi lên được, kể cả đức Phật có cầu nguyện thì hòn đá cũng không thể nổi lên. Đức Phật bảo cũng thế – nếu một người tạo ác nghiệp mà rơi vào địa ngục thì dù cả nhân loại này đứng ra cầu nguyện thì cũng không có cách nào làm cho người đó ra khỏi được địa ngục. Đó là một chân lý. Thứ hai nữa, sau đó đức Phật sai ngài A Nan đem một chút dầu đổ lên trên mặt nước và bảo mọi người các ông hãy cầu nguyện cho cái dầu nó chìm xuống. Mọi người thưa rằng – bạch Thế Tôn không thể có cách gì làm cho dầu nó chìm xuống được, Đức Phật nói – cũng vậy, giả sử có một người sinh lên cõi trời, mà cả nhân họa này cầu nguyện cho họ đọa xuống địa ngục thì cũng không bao giờ họ rơi xuống địa ngục được cả. Như thế thì chúng ta biết rằng là đức Thế tôn phủ nhận dựa vào thần linh để cầu nguyện, ban cho hạnh phúc hay là giáng họa cho một người nào đó. Và hiện nay, nhân loại bước sang thế kỷ từ hai mốt rồi, các tôn giáo ,các hình thức tín ngưỡng cũng đều dựa vào cách cầu nguyện để mà thực hiện là cầu nguyện, và đức Phật nói rằng những sự cầu nguyện ấy không đem lại hiệu quả. Vậy thì chúng ta thờ Phật để làm gì, nên nhớ rằng mục đích thờ phật của chúng ta không phải để cầu nguyện, trong Phật giáo có hai từ mà chúng ta thường sử dụng, nhưng chúng ta rất dễ nhầm lẫn hai từ này- cầu xin và phát nguyện. Cho nên chúng ta gọi là cầu nguyện, cầu tức là cầu xin, tức là xin để ban cho, chúng ta cần gì thì chúng ta đến xin, ví dụ như là cần tiền đến xin bố mẹ thì bố mẹ có tiền sẽ ban cho chúng ta tiền, đó là thuộc dạng cầu xin. Nhưng trong Phật pháp, đức Phật phủ nhận sự cầu xin này, bất kể một phật tử nào, một vị tăng ni nào thời đức Phật đến bạch đức Thế tôn việc muốn cầu xin đức Thế tôn thì đức Thế tôn nói rằng ta đã từ bỏ sự cầu xin đó, không chấp nhận sự cầu xin. Nếu ai nói tới cầu xin với đức Phật là đức Phật phủ nhận ngay. Nếu có một ước nguyện xin bạch với đức Thế tôn thì đức Thế tôn nói nếu ước nguyện đó phù hợp với chân lý thì Thế tôn chấp nhận. Thì chúng ta phải hiểu rằng đức Phật chỉ chấp nhận điều chúng ta phát nguyện thôi, trong Phật pháp chỉ dùng từ phát nguyện, chứ không dùng từ cầu nguyện. Nói chính xác là như vậy, còn chúng ta cầu nguyện, tức là cầu xin và ước nguyện, đưa lên  ước nguyện nhưng mà trong ước nguyện đó là sự cầu xin, ví dụ như chúng ta ước nguyện cho xã hội được hòa bình, ước nguyện cho nhân loại được hạnh phúc, ước nguyện cho chúng ta được khỏe mạnh, ước nguyện cho chúng ta được học Phật, điều đó thuộc dạng ước nguyện, chứ không thuộc dạng cầu nguyện, cầu nguyện  tức là chúng ta là đối tượng cầu xin và đức phật là người ban cho. Trong Phật pháp khi chúng ta tụng kinh xong là chúng ta phát nguyện chứ không phải cầu nguyện. Chúng ta phát nguyện vãng sinh chứ không phải là Phật ban cho chúng ta. Xin Phật cho con về nước Phật, Phật không cho ai về nước Phật cả. Phật không có tiếp dẫn theo cách cứ cầu xin là được. Chúng ta thờ Phật, phật tử tại gia thờ Phật ở nhà hoặc thờ phật ở chùa là lấy đức Phật làm  đối tượng tôn thờ ở đây đối tượng tôn thờ tức là thần tượng, đem đức Phật trở thành thần tượng. Thực ra đó là tình cảm tôn giáo, chúng ta biết rằng, sau khi mà đức Phật nhập niết bàn thì đức Phật không còn hiện diện ở trên thế gian, cho nên lòng khao khát, lòng tưởng nhớ hình bóng của đức Phật luôn luôn là ghi sâu ở trong tâm trí của những người đệ tử phật. Và khi đó người ta chưa tạc tượng Phật để thờ, về mặt lịch sử là như vậy. Bấy giờ người ta tôn thờ cái gì, tôn thờ xá lợi của đức Phật. Vì thế chúng ta biết rằng là sau khi đức Phật nhập niết bàn, có tới tám quốc gia tới tranh giành xá lợi đó để mang về tôn thờ, nếu mà không có một vị phật tử trí tuệ đứng ra phân chia một cách công bằng xá lợi thì có lẽ đã xảy ra một cái cuộc chiến tranh tôn giáo để dành xá lợi của đức Phật. Và sau khi mà xá lợi đã được phân chia thì các quốc gia đều mang về để xây dựng những bảo tháp để tôn chí xá lợi của đức Phật, và coi bảo tháp đó chính là đức Phật để người ta hàng ngày đến tán than, chiêm ngưỡng rồi đỉnh lễ. Ban đầu là như vậy để thỏa cái lòng nhớ mong với đức giáo chủ. Sau khi đức Phật nhập diệt khoảng độ hơn một trăm năm, bấy giờ Ấn Độ xuất hiện một vị hoàng đế A sô ca, tức là A dục vương, trên cơ sở có rất nhiều người muốn chiêm ngưỡng đỉnh lễ xá lợi của đức Phật, nhưng chỉ có tám ngôi bảo tháp là có xá lợi thôi, như thế thì người ta phải đi rất xa mới có thể chiêm ngưỡng, đỉnh lễ được xá lợi của Phật. Với cái mong ước của chúng sinh như vậy, cho nên hoàng đế A sô ca lúc bấy giờ quyết định mở tám cái tháp ấy ra, và đem xá lợi của đức Phật phân chia làm tám vạn bốn nghìn phần, và cho sứ giả mang xá lợi đấy đi khắp các nơi để xây dựng bảo tháp cho mọi người đều có khả năng đỉnh lễ, tôn thờ và chiêm ngưỡng. Nó bắt đầu từ những chuyện như vậy. Về mặt lịch sử, Việt Nam chúng ta vào cái thời kỳ đó đã có những đoàn sứ giả của A dục, mang xá lợi của đức Phật đến đất nước chúng ta, và ở tại Đồ Sơn- Hải Phòng bây giờ có cái tháp Tường Long mới xây dựng phục chế lại trên cơ sở nền của cũ của ngôi bảo tháp A dục vương tháp, và các nhà khảo cổ, những người nghiên cứu Phật học xác nhận đó là một trong những bảo tháp mà được xây dựng từ thời A Dục. Tám vạn bốn nghìn bảo tháp phân chia khắp cả thế giới cũng vẫn không đủ cho sự khao khát, ngưỡng vọng của chúng sinh, và dần dần người ta xây những ngôi tháp mà không có xá lợi. Và lúc bấy giờ mà người ta nghĩ ra rằng phải làm hình tượng của Đức Phật thì để cho người ta dễ cảm nhận hơn. Về mặt lịch sử, lúc bấy giờ việc bắt đầu tạo tượng của đức Phật đã xuất hiện. Tức là phải phải vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên (sau khi đức Phật nhập lên bàn bốn thế kỷ, tạc tượng Phật mới bắt đầu xuất hiện. Ban đầu tượng Phật là được đặt trong các ngôi bảo tháp, cho nên là tháp xưa kia là có hai loại, một là tháp có xá lợi thì cái đó gọi là phù đồ, phù đồ là tháp có xá lợi của đức Phật. Còn dạng tháp thứ hai là không có xá lợi thì gọi người ta gọi là tháp miếu, tức là tháp thờ và trên cái tháp đó người ta sẽ tạc tượng Phật ở trên đó. Dần dần nhu cầu càng ngày càng nhiều lên, thì việc là xây tháp rồi tạo tượng phật nó càng trở nên rộng rãi, và từ đó dẫn đến cái vấn đề là chỗ nào có người tín mộ Phật pháp thì chỗ đó có xây dựng chùa tháp để thờ Phật, và lấy nó làm đối tượng thờ phụng. Về mặt lịch sử là chúng ta hãy hiểu rõ như vậy, và cho đến bây giờ thì ngoài chuyện các chùa thờ cúng tôn tượng của đức Phật ra, thì các tư gia phật tử gần đây cũng có rất nhiều gia đình thờ Phật. Vậy thì ở đây chúng ta phải xác định Phật là đối tượng để chúng ta thờ cúng, trong các sách là chư tổ có nói- thờ Phật là để niệm ơn đức Phật. Chúng ta phải xác định là mục đích thờ Phật là để nhớ ơn đức Phật, đây là mục đích thứ nhất. Mục đích thứ hai là để chúng ta học Phật, để nhìn thấy tôn dung của đức Phật và coi đức thật là thần tượng của chúng ta, bởi vì một khi chúng ta coi đức Phật là thần tượng thì chúng ta phải luôn có cái hình tướng của ngài để chúng ta học tập theo, tôn kính theo, ngưỡng vọng theo. Cho nên cái mục đích thờ cúng Phật, vẽ tranh tượng Phật là để chúng ta có được thần tượng của sự tôn kính và lấy đó làm tấm gương để học tập. Thờ Phật là để nhớ đức Phật, thứ hai nữa là thờ phụng Phật, lấy đức phật làm tấm gương chúng ta học tập noi theo. Đây chính là mục đích chính để chúng ta thờ phụng đức Phật, chứ không phải mục đích chúng ta thờ Phật giống như các tôn giáo khác, coi đức Phật là một vị thần, để hàng ngày cầu nguyện ban phúc giáng họa, hay là cầu nguyện theo cái cách mà như Đức Phật đã phủ nhận ở trên.

Sang phần B là nội dung chính, xin mời các vị đọc.

Kinh văn:

B. CHÁNH ÐỀ

I. THỜ PHẬT

1) Phật là bậc đáng tôn thờ.

Phật là những bậc đã dày công tu luyện phước đức và trí tuệ, cho nên đã được hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ đức hạnh cao quý. Các Ngài đã dùng đức và trí ấy để dẫn dắt chúng sinh ra ngoài biển khổ sinh tử luân hồi, và đưa đến địa vị sáng suốt an vui. Trong công việc độ sinh ấy, các Ngài lại không bao giờ thối chuyển ngã lòng mặc dù gặp trở lực khó khăn. Các Ngài đã nguyện độ cho toàn thể chúng sinh, cho đến khi nào không còn một chúng sinh nào để độ nữa mới thôi. Thật là đúng với câu: “Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.

Một bậc có đủ ba đức tính quý báu là Bi, Trí, Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu được. Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quý báu, những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ, thì còn tôn thờ ai nữa?

2) Nhưng chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa?

Như trên đã nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ lòng tri ân của chúng ta đối với một vị đã có ân đức lớn với nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành để khuôn rập tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được chân, thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Chúng ta thờ Phật là muốn luôn luôn được có bên mình ngọn đèn trí tuệ của Ngài, cái hương từ bi của Ngài để được sáng lây, thơm lây, chứ không phải chúng ta có mục đích cầu cạnh Ngài để Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng ta mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính. Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở trên, thì không những chúng ta đã phỉ báng đức Phật, mà chúng ta còn tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa.

3) Phải thờ đức Phật nào?

Ðức Phật nào cũng có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ bao la cùng khắp và công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả; nên hễ thờ một đức Phật là thờ tất cả các đức Phật.

Nhưng chúng ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi đức Phật và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lý, hợp cơ. Thí dụ như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, thì lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ Ngài trước hết.

Nếu tín đồ nào tu về “Tịnh độ tông”, chuyên về pháp môn “trì danh niệm Phật” để cầu vãng sinh, thì tín đồ ấy phải thờ đức Phật A Di Ðà. Hoặc giả, nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong ba đời, thì nên thờ đức Phật Thích-Ca, đức A Di Ðà, và Ðức Di Lặc, gọi là thờ “Tam thế Phật”.

4) Cách thức thờ Phật.

Như vậy trong nhà tín đồ, nếu muốn thờ tượng Phật, thì nhiều nhất là ba vị. Và nên nhớ rằng, trong khi thờ Tam thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kiếng thì nên treo ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; còn như tượng gỗ, tượng đồng tượng sành, thì để ngang hàng đồng bực, không nên để từng trên, cấp dưới. Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc sau đúng câu: “Tiền Phật hậu Linh, hay Thượng Phật hạ Linh”. Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương,, chân đèn và dĩa quả. Những vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau quét sạch sẽ luôn.

Lần đầu tiên thỉnh tượng Phật, tín đồ phải làm lễ thượng tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản, nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được hai đặc điểm ấy, chủ nhà phải dọn mình sạch sẽ: ăn chay, giữ giới và mời thêm thiện hữu tri thức đến hộ niệm một thời kinh.

Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trông thấy tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà chỉnh đốn lại thân tâm mình. Mỗi ngày đều lo cải thiện lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và bình đẳng. Như thế mới xứng đánh với danh nghĩa của một gia đình có thờ Phật. Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bị hư rách, không thể sơn phết hay sửa chữa lại được, thì nên thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới rồi thì tượng cũ phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội.

Giảng giải chi tiết

Ở đây trước hết là nói đến nội dung đầu tiên của bài – thờ Phật, điều đầu tiên khẳng định là- đối với bất kể một tôn giáo nào thì vị giáo chủ của tôn giáo ấy đều đáng thờ phụng, và chúng ta là đệ tử của đức Phật, cho nên đức Phật chính là đối tượng mà chúng ta thờ phụng. Trong Phật giáo Bắc truyền hay gọi là Phật giáo Đại thừa, thì ngoài đức Phật lịch sử- đức Phật bản sư Thích Ca Mâu Ni, có hằng hà sa số các đức Phật. Vì thế chư phật đồng một thể tính, xong có các hiện tượng khác nhau, danh gọi khác nhau, nhưng mà bản chất trước là đồng thể tam bảo- thể tính chỉ là một. Giống như là vàng là thể tính của vàng, có thể là làm ra vòng này, nhẫn này và các cái đồ dùng khác nhau, tuy tên gọi khác nhau nhưng thể chất là một. Chư Phật cũng giống như vậy, tuy tên gọi là khác nhau như là gọi là phật Thích ca, Phật A di đà, Phật Dược sư, cho đến những bộ kinh mà chúng ta tụng kinh Vạn phật chẳng hạn, bản chất đã là Phật chỉ có một thôi, không có khác. Cho nên thờ một vị phật, tức là thờ hết thảy các đức Phật. Nhưng vì chúng sinh có tâm phân biệt cho nên là mới sinh ra là thờ rất nhiều Phật. Mà chúng ta có thờ bao nhiêu vị Phật đi chăng nữa, như một ngôi chùa là thờ đến bảy tám chục vị, có những ngôi chùa có tới hàng trăm pho tượng Phật, thì vẫn không là không đủ. Bởi vì là Phật là vô lượng vô biên mà, hằng hà sa số nhiều như cát sông Hằng, sao chúng ta mà thờ hết được. Trong bộ kinh Vạn phật có tên một vạn vị Phật rồi, nhưng vạn vị Phật thì vẫn không đủ. Nên nhớ rằng, thờ một vị Phật là thờ tất cả các đức Phật, thờ tất cả đức Phật cũng chính là thờ một vị Phật. Phật là đấng đáng tôn thờ, cho nên chúng ta tôn thờ là bậc pháp vương, nghĩa là gì vua của các pháp. Và Phật là chúng Thánh chung vương, tức là trong các bậc thánh thì Phật là vua của các thánh, tức là đứng đầu trên tất cả các bậc thánh. Thánh ở đây bao gồm cả thánh thế gian và thánh xuất thế gian, cho nên trong tất cả các đối tượng mà thế gian thờ cúng thì không có ai hết hơn được đức Phật. Là đệ tử của đức Phật, thờ đức Phật là đủ rồi, không cần thờ các vị khác. Tuy nhiên trong Phật pháp thì ngoài đức Phật ra thì còn phân chia ra là rất nhiều- dưới các đức Phật còn có các vị Bồ tát nữa, là những người mà đang tiến dần đến quả vị Phật, dưới các vị Bồ tát còn có các vị La hán, dưới các vị La hán người ta còn thờ các vị Tổ sư, tức là những người tu hành có công hoằng đạo, hoằng dương Phật pháp. Tất cả những đối tượng đó đều là đối tượng mà người ta thờ cúng. Thờ ở trong các tự viện.
Đối với phật tử chúng ta ở tại gia chỉ cần thờ một đức Phật là đủ. Bởi vì Phật có đầy đủ các đức tính như đã nói là tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Đầy đủ cả ba đức tính tôn quý, là từ bi, trí tuệ, đại hùng đại lực, và tức gọi là bi – trí – dũng. Vì thế Phật là đối tượng để cho chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải thờ Phật thế nào cho đúng, ở phần tổng quát nói rồi, mục đích của chúng ta thờ Phật là để tỏ lòng biết ơn đức Phật. Thứ hai lấy tôn tượng của Phật là đối tượng, chúng ta gọi thần tượng để chúng ta học tập để noi theo. Trong nhà có hình tượng của đức Phật, hàng ngày chúng ta chiêm ngưỡng tôn tượng của đức Phật, dung nhan của đức Phật khiến cho chúng ta phát khởi tâm lành, luôn nhắc nhở tâm thiện trong chúng ta, và do nhắc nhở cái tâm thiện giúp cho chúng ta bỏ đi những tật xấu, bỏ những điều chưa hoàn thiện và giúp cho chúng ta hoàn thiện hơn. Khi chúng ta có một không gian như vậy để tụng kinh, dễ khởi tâm thành kính hơn, dễ nhiếp niệm hơn. Nếu không có tôn tượng của đức Phật, nếu không có sự thờ cúng bày biện trang nghiêm ấy, thì tâm thành kinh khó sinh. Phật khắp cả thế gian này chỗ nào chả có, nhưng mắt không nhìn thấy tôn tượng của đức Phật, thì tâm thành kính không sinh. Không có không gian thờ trang nghiêm đẹp đẽ, thì tâm thành khó phát sinh. Cho nên mục đích có tôn tượng của đức Phật, có không gian thờ cúng, để cho thiện tâm và tín tâm phát khởi một cách mãnh liệt và chuyên nhất. Khi có hình tượng của đức Phật ở trước mặt thì lập được thu nhiếp, giống như một người nhỏ bé đứng trước một người có uy đức thì tự nhiên phải khép nép lại, hành động lời nói cử chỉ sẽ được đưa vào khuôn mẫu, người ta tự cảm thấy kính sợ, do cái lòng thành kính mà cảm thấy sợ. Cho nên trong Phật pháp, hữu uy khả úy, hữu nghi khả kính. Có uy làm cho người ta kính sợ, có phép tắc làm cho người ta tôn kính, Phật là bậc đầy đủ tôn nghi. Cho nên khi chúng ta thờ Phật, chúng ta khởi lòng thành và khởi tâm kính. Do khởi cái lòng thành, tâm kính thì  cho chúng ta thu nhiếp được ba nghiệp, tức là nghiệp than, nghiệp khẩu, nghiệp ý tự nhiên thu thúc lại. Do thu thúc lại thì chúng ta tránh được điều ác, tránh được điều nghĩ bất thiện, giảm bớt được tham sân si, đấy chính là mục đích mà chúng ta đối tượng tôn tượng mà chúng ta thờ phụng. Chúng ta không phải thờ Phật với mục đích cầu cạnh Ngài, hàng ngày xin Ngài ban phúc giáng họa, rồi làm những việc này việc khác…Mục đích mà mà thờ Phật như vậy trở thành sai lầm. Chúng tôi gặp rất nhiều người thờ Phật với mục đích này, cho rằng thờ Phật để Phật phù hộ cho. Sau một thời gian thờ cúng không thấy có hiệu quả, rồi trong nhà nó xảy ra chuyện này chuyện kia lục đục, rồi đi xem bói bảo tại vì thờ Phật ở trong nhà cho nên là thần linh người ta bỏ đi, cho nên sợ. Vì thế cho nên lại mang tượng phật những cái đồ thờ đến gửi chùa. Chính vì mục đích của chúng ta là bất chân, không chân chính, dẫn đến những việc mà thờ cúng dẫn đến sai lầm, là thờ phật giống như một vị thần để cầu xin rồi gặp những cái chuyện này chuyện kia bị người ta hù dọa thế là thoái mất tâm thờ Phật. Nhiều khi thờ Phật là đối tượng để trang trí, cả ngày không thắp hương, cả ngày không tụng kinh, không lễ lạy gì cả, là vật trang trí trong nhà. Thờ cúng đốt hương, đốt hoa suốt ngày khấn khứa để cầu xin, biến điện Phật giống như nơi thờ thần. Việc thờ cúng như thế là sai lầm. Đối với phật tử, chúng ta phải hiểu rõ điều đó và nếu đã có những cái sự sai lầm về cái mục đích thờ phụng như vậy, thì chúng ta phải hiểu lại cho đúng, chân chính. Nếu không sẽ dẫn đến hệ quả- gặp chuyện này chuyện khác mà tâm chúng ta dao động, sẽ đánh đổ tín tâm của chúng ta đối với Đức Phật.

Đức Phật nào cũng đầy đủ từ bi, trí tuệ và công đức, thờ một đức Phật là thờ hết thảy các đức Đức phật. Đầu tiên chúng ta phải thờ – về mặt lịch sử đó phải là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vì hiện nay là chúng ta đang trong thời kỳ giáo hóa của Ngài, và chúng ta đang học giáo pháp của ngài và chúng ta đang quy là đệ tử của ngài cho nên đức Phật Thích Ca chính là đức Phật mà chúng ta phải tôn thờ.
Ngoài ra, tùy theo pháp môn chúng ta tu tập, ví dụ như những người tu tịnh độ thì phải thờ đức Phật A Di Đà. Nhưng thờ đức A Di Đà cũng không được quên Đức Phật Thích Ca,  bởi vì là có Phật Thích ca giới thiệu thì chúng ta mới biết được đức Phật A Di Đà. Cho nên là đức Thích ca là căn bản, là nền tảng. Trong kinh đức Phật nói- ta ở thế giới này có tên là Thích Ca Mâu Ni, nhưng mà ta ở thế giới Tây phương cực lạc thì ta có tên là A Di Đà, ở phương Đông thì ta có tên là Dược Sư. Thực ra là đức Phật đã nói cho chúng ta rồi, bản thể của các Đức Phật là một, vì ứng hóa khác nhau ở các quốc độ khác nhau nên các ngài có tên khác nhau mà thôi. Ví dụ, đời này kiếp này được sinh ra làm người, hiện thân ở bây giờ thì tôi có pháp danh là Thích Tiến Đạt, nhưng kiếp trước tôi chẳng phải là Thích Tiến Đạt. Kiếp sau trở lại là người tôi cũng tu hành, cũng là một vị sư nhưng không phải là Thích Tiến Đạt, có một pháp danh khác nhưng mà bản chất tôi là nó không có khác phải không. Tên có khác nhau ứng với thời kỳ giáo Pháp khác nhau thì chư phật hiện ra có tên gọi khác nhau. Ở đây tam thế chư Phật cho rằng ba vị phật ấy là biểu thị cho ba đời đức Phật – Đức Di đã thành phật đã mười kiếp rồi, coi như là phật quá khứ, thế đức Phật Thích ca là giáo chủ ở đời hiện tại, cho nên coi là đó là Phật hiện tại và đức Di lặc tương lai sẽ thành Phật, là phật vị lai. Vì thế thờ ba vị Phật này là thờ quá khứ Phật, hiện tại Phật, và vị lai Phật. Đó là tam thế chư phật, ba đời đều có các Đức Phật. Ngoài ra, Phật giáo Trung Quốc người ta thờ ba vị phật gọi tam tôn phật. Tam tôn Phật bao gồm đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở giữa, bên tay phải nhìn vào thờ đức Phật Dược sư, phật dược sư là giáo chủ cõi phương Đông và bên tay trái  nhìn vào là thờ đức Phật A Di Đà, giáo chủ các phương Tây. Đức Thích Ca ở giữa gọi là Trung thiên giáo chủ. phương đông là thờ đức Phật dược sư là biểu thị cho sự sống. Khi ra đời phải có thầy giáo hóa là Đức Phật Thích Ca. Phương Tây là cái chỗ trở về cho nên đó là Đức Phật A Di Đà. Vì thế trên cuộc đời này có ba vị thầy – thầy thuốc từ lúc chúng ta sinh ra là cần phải có thầy thuốc và thầy thuốc là giúp cho chúng ta có một cuộc sống yên ổn, tức là có sức khỏe đấy, cho nên chúng ta gọi danh hiệu của đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ – thọ là thầy thuốc. Có sức khỏe rồi phải có trí tuệ cho nên người thầy mà khai mở trí tuệ cho chúng ta ở ngoài đời gọi là thầy giáo, nhưng mà trong chùa chúng ta gọi đó là đức bản sư Thích Ca Mâu Ni là người khai đạo mở đạo, đức Thích Ca là thầy của những người thầy trên nhân gian, bậc thầy giáo dục. Chúng ta có sức khỏe, có trí tuệ thì có được cuộc sống hiện đại yên vui, nhưng mà cuộc sống tương lai ấy có hạnh phúc an vui hay không thì cần phải có một người thầy nữa đó là người thầy tâm linh, và người thầy ấy gọi là đạo sư, đó là đức A Di Đà. Cho nên trong chùa thờ chính ba vị Phật, tức là Phật thầy thuốc, Phật thầy giáo và Phật thầy chùa. Đức Phật Dược sư là Phật thầy thuốc, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật thầy giáo, là bản sư- bản sư là thầy giáo của tôi. Đức tiếp dẫn đạo sư tức là bậc thầy tâm linh dẫn dắt tâm linh chúng ta sau khi từ bỏ thời gian này để trở về với thế giới tây phương cực lac, cho nên người ta thờ chính là ba vị Phật này. Chùa là để thờ phụng biểu tượng của ba vị thầy cao cả của nhân loại, nhân loại phải tôn thờ, mọi ngành nghề khác người ta không gọi là thầy,  nhưng mà thầy thuốc là gọi là thầy, thầy giáo gọi là thầy, mà những người xuất gia tu hành trong đạo phật cũng được gọi là thầy. Cái đó gọi là ba vị thầy. Vì cuộc đời chỉ cần có ba vị thầy này là an vui hạnh phúc rồi, cho nên là đối tượng thờ thì chúng ta có thể thờ 3 vị Thầy này. Hoặc, chúng ta có thể thờ nhất Phật nhị Bồ tát, ví dụ thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thờ hai bên cạnh là Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, tức là hai vị Bồ tát trợ giúp đức Thích Ca trong vấn đề giáo hóa. Hoặc thờ hai tôn giả Xá Lợi Phất – Mục Kiền Liên, đứng ở bên cạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hoặc, Thiền tông người ta thờ đức Phật Thích Ca ở giữa và bên cạnh là ngài Ca Diếp và A Nan, tức là tùy theo pháp môn chúng ta tụ tập mà người ta có cách thờ phụng khác nhau. Còn những người mà tu theo Tịnh độ, thì thờ đức A Di Đà và một bên là đức Quán Thế Âm, một bên là Đức Đại Thế Chí. Hoặc người ta có thể là thờ ở giữa là đức Phật A Di Đà, một bên là đức Quán Thế Âm, một bên là Bồ tát Địa tạng. Quán Thế Âm là cứu khổ ở dương gian, và đức Đia Tạng là cứu khổ ở trong cõi địa ngục. Vì thế có nhiều cách thức bài trí khác nhau. Cách thức thờ Phật thì ở đây đã nói, chúng ta muốn thờ Phật thì có thể là thờ tượng, hoặc là thờ tranh, tùy theo khả năng, tùy theo điều kiện, tùy theo không gian mà chúng ta có. Cách thức thờ Phật từ xưa đến nay nếu có đủ không gian mà có ban thờ Phật ở giữa, rồi thờ gia tiên ở bên cạnh là tốt nhất, còn nếu chỉ có một không gian thôi, thì chúng ta thờ Phật đằng trước và thờ gia tiên phía đằng sau ban Phật. Ngày xưa gọi là tiền phật hậu linh, tức là thờ phật phía trước, thờ vong linh phía sau Phật để biểu thị ông bà tổ tiên là phải ngồi phía đằng sau Đức Phật, để thị giả Đức Phật. Khi chúng ta tụng kinh niệm phật như thế, đối tượng chúng ta nhìn chính là đức Phật và ông bà tổ tiên thì cũng hiện diện ở đó với tâm niệm cũng được về hầu Phật để nghe kinh. Gọi là tiền phật hậu linh, tức là phía trước là bàn thờ phật, phía sau là bàn thờ các vong linh. Cách thức thờ này phổ biến chủ yếu ở trong miền Trung- Huế – Quảng Nam, Đà Nẵng.. và có thể cả miền Nam- thờ tiền Phật hậu linh. Còn phía Bắc hiện nay thì thờ phật là thượng phật hạ linh, nghĩa là bàn thờ Phật thì đặt cao hơn ở bên trên, bàn thờ các vong linh thì đặt phía dưới bàn thờ Phật- thấp hơn, gọi là thượng phật hạ linh. Còn cách thứ ba nữa là Phật ở giữa, thờ vong linh ở hai bên, tức là Phật ở trung tâm và vong linh gọi là ở hai bên tả hữu. Cách như thế cũng được, miễn sao không gian thờ Phật phải trang nghiêm, cao hơn tất cả, không nên thờ hỗn tạp giữa Phật với Thần, hoặc là thờ Phật với các vong linh chung một bàn thờ là không được. Bởi vì vong linh dù có là ông bà, cha mẹ, tổ tiên chúng ta đi chăng nữa chỉ là người phàm phu bình thường, không thể có địa vị ngang bằng hoặc đặt cao bằng với bàn thờ Phật được. Cái này chúng ta lưu ý. Vậy thì các phật tử mà gia đình không có điều kiện thờ phật thì hàng ngày tu tập thế nào, tụng kinh làm sao. Thực ra thì chúng ta cũng không cần phải có một bàn thờ Phật như vậy đâu, nếu chúng ta muốn tụng kinh- một là không có có tượng Phật đằng trước thì vẫn tụng kinh được. Có hình tượng của Phật trang nghiêm thì chúng ta có một cái khung ảnh tượng phật, chúng muốn tụng kinh thì chúng ta thỉnh bức tượng đó ra, nhỏ cũng được để phía trước mặt hoặc một khung ảnh nhỏ cũng được để trước mặt. Có hương thì đốt và một cái lư hương nhỏ, còn không thì thôi, cần thì chúng ta chỉ thắp một cái ngọn nến rất là nhỏ nếu mà chúng ta thắp hoa đăng, cũng chỉ cháy trong khoảng độ ba mươi phút là đủ. Một cục hương trầm nhỏ nhỏ như thế này để vào trong cái lư thế là có đủ hương đèn rồi, như thế là chúng ta có đủ không gian tụng Kinh rồi. Đó là đối với các phật tử không có điều kiện thiết lập một ban thờ Phật cho nó trang nghiêm đàng hoàng, thì chúng ta có thể dùng cái cách đó. Hoặc là chúng ta ở những các gian phòng nó rất nhỏ, thì tụng kinh chỉ cần có một cái bàn để một cái bức hình đức Phật ở phía trước, hoặc một pho tượng rất nhỏ, một cái lư hương nhỏ, một cây nến nhỏ phía trước, thế là đủ hương nến để tụng kinh rồi. Xong thì chúng ta xếp gọn các cái thứ đó vào một cái hộp, tượng Phật mà không tiện để bày ra ngoài hoặc tranh ảnh, chúng ta dùng một miếng vải vàng hoặc vải đỏ chúng ta phủ lên, thì mọi sinh hoạt vẫn có thể bình thường và cũng không có mất đi cái sự là tụng kinh lễ bái tôn kính trước Đức Phật. Bởi vì như trên chúng ta nói, nhìn thấy hình ảnh Phật để cho chúng ta gì dễ nhiếp tâm, dễ thành kính, dễ cung kính mà thôi, và ban thờ Phật cần hết sức đơn giản. Chúng ta thờ tranh hoặc tượng, nếu có ban thờ thì chỉ cần có một lư hương, và nếu mà bạn ban thờ mà rộng thì có đủ thì chúng ta có thắp hai cái đèn để hai bên, còn không thì chỉ cần một ngọn đèn là đủ. Đèn là biểu thị cho trí tuệ, cho nên các lễ vật mà dâng cúng Phật thì cái phần sau sẽ nói rõ, nhưng ở đây chúng ta chỉ cần có một ngọn đèn, một bát nước, hai cái này gọi là vật và không thể thiếu được. Nước được biểu thị cho từ bi, cho nên nên dùng nước trắng để trong cái bát hoặc trong cái ly thủy tinh, và tốt nhất là để trong cái ly thủy tinh trong suốt, để biểu thị cho tâm thanh tịnh. Thế rồi có một cái lư hương, lư hương để có thể thắp được hương nén, còn không thì có cái lư nó rất nhỏ có thể thắp trầm là được, không cần phải những cái bát hương to lớn rườm rà. Thế rồi có một bình bông, tức là cái bình hoa đấy, và nếu có đủ không gian thì có một nơi đặt đĩa quả. Thì chỉ cần có sáu vật thôi, sáu thứ thì cúng dàng Phật. Hương là lư hương, hoa là bình hoa, hương – hoa – đăng, đăng là đèn, thủy trà là nước, quả là trái cây và khi mà chúng ta có các cái thực phẩm chay cúng dàng hoặc là xôi oản thì cúng them- đó là sáu thứ để dâng cúng. Một ban thờ Phật rất đơn giản, nhưng không gian thờ Phật không cầu kỳ, bày không nhiều, bày nhiều giống như như các đền, phủ nhiều hơn là không gian thờ phật. Không gian thờ Phật càng thanh tịnh bao nhiêu, càng tối giản bao nhiêu, càng trang nghiêm bao nhiêu, thì tốt bấy nhiêu. Nếu thờ cúng càng bày biện rườm rà sẽ trở thành không gian thờ cúng mang tính chất thần linh nhiều hơn là tôn kính một đấng đạo sư. Bởi vì cuộc đời của đức Phật là giản dị, thanh bạch cho nên là không gian thờ cũng vậy. Thế thì chỉ cần một ngọn đèn, một bát nước, một lư hương, một bình hoa, một đĩa quả. Theo nguyên tắc đặt cho cân đối thì cắm bình hoa hai bên, còn không thì chỉ cần một bình cũng được. Hoa một thứ cũng được, có thể dùng nhiều thứ tùy theo khả năng và không gian, nhưng nếu mà dùng một bình hoa thì bình hoa để bên tay phải và đĩa quả thì để bên phía tay trái chúng ta nhìn vào, theo cái quan niệm của phương đông – đông bình tây quả. Đông là bên tay phải chúng ta nhìn vào ấy là để bình hoa, phía tây ấy là để đĩa quả, gọi là đông bình tây quả. Đấy cái nguyên tắc là người ta bày như vậy. Cách thờ phụng như vậy, ngày nay lập ban thờ Phật thì hỏi rằng có phải làm lễ an vị tượng hay không, có cần phải làm lễ hô thần nhập tượng hay không, có phải khai quan điểm nhãn hay không… Vấn đề này thì cũng phải làm cho rõ. Thực ra, tính chất trang nghiêm thành kính, thì chúng ta cái lễ gọi là lễ an vị, thực ra để cho chúng ta an tâm thôi, chứ còn nhiều khi là các hòa thượng có nói đùa là chúng ta cứ để tượng Phật ở chỗ nào thì tượng phật cũng ngồi nguyên chỗ đó, các ngài có chạy đi chỗ nào đâu mà chả an vị. An vị tức là ngồi yên một chỗ. Phật đâu có ngồi yên một chỗ mà an vị, Phật là ứng hóa thân khắp cả mọi nơi, chỗ nào chúng sinh cầu thì Phật ở đó, Phật đâu có ngồi yên một chỗ. Nhưng mà an vị là gì. An vị là chúng ta sắp đặt tôn tượng đó vào vị trí, đó thì cái đó gọi là an vị tượng. Để pho tượng vào chỗ đó, bất di bất dịch. Nếu mà đã an vị rồi mà chúng ta hôm nay bao chùi, mai bao chùi, động vào là chúng ta lại sợ như thế là động các Ngài rồi. Như thế thì chúng ta đã biến Phật thành cái đối tượng thần thờ cúng, và cứ động vào là sợ hãi, làm cái gì là nó sinh sợ, thực ra cái này là cái điều mà chúng ta học Phật, chúng ta phải hiểu rõ, và đừng có chấp mắc vào quan niệm như vậy. Trong các nghi lễ hiện nay ở ngoài Bắc khi làm tượng Phật xong còn có cái lễ hô thần điểm nhãn, khai quang yên vị. Thực ra thần cũng không hô được, hô thần là hô thần nhập tượng, không hô được. Bản thân và chư Tăng đều là người phàm phu làm sao mà hô thần đức Phật được. Còn sinh thời đức đệ tam pháp chủ, ngài bảo tăng toàn phàm phu làm sao mà hô được thần phật. Mà Phật đã nhập niết bàn rồi thì pháp thân của Phật ứng khắp mọi nơi, chỗ nào chẳng có mà phải hô thần. Nếu hiểu cách làm tượng như thế rồi hô thần để gọi thần của đức Phật nhập vào pho tượng ấy thì biến Đức Phật thành thần và biến pho tượng ấy thành đối tượng cầu cúng mang tính chất mê tín. Nhưng ở đây, bản chất của cái lễ an vị tượng, lễ hô thần, khai quang yên vị đó là – khi tạo nên một pho tượng, hoặc là vẽ tranh hoặc là in tranh, hoặc là tạc tượng, đắp bằng đất, hoặc là nung bằng bằng sành sứ, chư tổ cho rằng trong lúc làm như thế tâm của người làm không có được thành tịnh, dẫn đến các pho tượng đó chưa được thanh tịnh, cho nên cần lễ để chúng ta nương vào y lực của đại chúng, dùng tâm thanh tịnh làm cho các pho tượng đó trở thành được trang nghiêm và thanh tịnh. Khi đã trang nghiêm thanh tịnh mới là cái tượng để chúng ta thờ cúng được. Do vậy cần phải dùng năng lực, ví dụ như trì chú cho thanh tịnh, rồi các ngài có thể dùng gia trì vào trong chén nước gọi là sái tịnh để làm cho không gian thanh tịnh, nhưng trước hết, nghi lễ đó phải thanh tịnh về mặt tâm. Khi chúng ta thấy yên tâm rồi, thờ cúng chúng ta thấy yên tâm. Nếu chưa làm lễ như thì tâm chúng ta chưa yên, mà tâm chưa yên thì thờ cúng nó không an được. Khi thanh tịnh thì trở nên yên ổn do đó gọi là yên vị. Thực ra cả tam thế chư Phật, đức Phật nào cũng có ba hai tiếng tốt tám mươi vẻ đẹp – hình tướng giống nhau hết, giống nhau không có sự có phân biệt, nhưng chúng ta là phàm phu coi pho tượng này là Phật Thích ca, thì gọi đó là Đức Phật Thích Ca, cho là Đức Phật này là Di Đà thì đó là tượng Đức A Di Đà. Lễ an vị tượng đấy, khai quang là gì- khai là mở ra, quang là ánh sáng, khi chúng ta làm cái lễ khai quang như thế là để mở cái tâm trí của chúng ta, giúp cho tâm trí chúng ta được thông suốt, cho nó được khai sáng, chứ không phải là khai quang cho Phật, lễ khai quang đó là khai quang cho chúng ta, lễ sái tịnh đó cũng là sái tịnh cho tâm chúng ta chứ không phải sái tịnh cho Đức Phật. Khai quang là để tâm khai thông, tâm đã được khai sáng gọi là khai quang. để cho tâm chúng nó được thanh tịnh, được yên ổn, và các nghi thức thế để cho việc thờ cúng của chúng ta nó trở nên trang nghiêm. Phải hiểu cái bản chất như vậy. Cho nên nếu vị phật tử nào phía Bắc tham dự lễ an vị tượng ở các chùa phía Bắc thì biết, phần lớn làm vào ban đêm, vì có người cho rằng phải làm buổi tối thì Phật mới nhập vào được, không làm ban ngày vì Phật không nhập vào được tượng. Nói như thế là mê tín, mà nói như thế là hoàn toàn không hiểu biết gì cả, thực ra đó là một cái biểu pháp. Tại sao khi là làm tượng, rồi hô thần người ta chọn làm ban đêm hoặc lúc làm lễ người ta phải tắt hết đèn đi. Ở đây mang tính chất biểu pháp, cái này nói rõ để phật tử chúng ta phải hiểu. Khi Phật chưa ra đời thế giới này gọi là trường dạ man man, tức là đêm dài tăm tối, chúng ta nằm trong cái đêm dài tăm tối của tham, của sân, của si. Khi đức phật ra đời, ánh sáng của chân lý và trí tuệ của đức Phật tỏa sáng xua tan cái bóng tối của đêm dài khổ đau. Cho nên người ta phải mượn cái lúc mà trời tối hoặc tắt đèn đi, để biểu cho việc khi phật chưa ra đời – các cái pho tượng phủ kín không ai nhìn thấy Phật như là Phật chưa ra đời- như trong kinh nói, Phật còn đang ở trong thai tạng, tức là đức Phật vẫn còn đang ở trong bụng mẹ, chưa ra đời, vẫn trong bụng của đức phật mẫu Da Du Đà La. Cho nên phải bọc kín lại, không cho ai nhìn thấy- khi Ngài chưa ra đời thì trời phải tối, thế gian này tối tăm và khổ đau. Khi trì chú xong rồi thì lúc bấy giờ hô – Chư Phật xuất thế, thiên hạ thái bình- bật đèn lên để biểu thị cho là Phật ra đời là ánh sáng trí tuệ tràn khắp. Vì ban ngày không có biểu diễn được sự sáng tối, cho nên người ta phải chọn ban đêm, chứ không phải ban đêm thì Phật mới nhập vào tượng, còn ban ngày thì phật không nhập. Thực ra Phật không nhập xuất, chúng ta làm nếu mà đã hiểu thông suốt thì giờ nào làm cũng được, hướng nào thờ cũng được. Nhiều người thờ Phật còn phải xem hướng, xem hướng này nó có hợp hay không, hướng kia nó hợp hay không, Chẳng có hướng nào cả, hướng nào cũng hợp hết. Bởi vì chúng ta biết rằng là gì thập phương thập phật, mười phương đều có phật, không có phương nào không có phật. Đông tây nam bắc tứ duy thượng hạ trên dưới chúng ta gọi là thập phương tam thế nhất thiết chư Phật, phương nào chả có Phật. Thờ hướng nào chả được, cứ gì là hướng này mới thờ được Phật, hướng kia không thờ được. Đã thờ Phật thì bất kỳ hướng nào cũng đều hợp hết. Trong không gian vô biên, vô tận này  đều có chư Phật. Cho nên, không nhất thiết làm lễ an vị tượng Phật vào ban đêm, chẳng qua ban đêm là để biểu diễn mang tính biểu pháp thôi, giống như chúng ta nói là đức Phật ra đời đi bảy bước, mỗi bước rồi nở hoa sen, rồi tay phải chỉ trời tay trái chỉ đất- đó là mang tính biểu pháp, không phải là lịch sử. Lễ an vị tượng mà người ta làm như vậy là cũng mang tính chất biểu pháp. Ngày xưa còn tung ngũ cốc, rồi tung tiền vàng, biểu thị Phật chưa ra đời thì chúng sinh đói khát khổ đau, đỏi cả về cả cơm, đói về cả pháp cho nên là khi Phật ra đời thì thiên hạ thái bình, tức là thóc lúa được mùa, nhân dân do no ấm. Tung hạt ngũ cốc, biểu thị cho trời mưa ra thóc gạo, mưa ra tiền của để cho chúng sinh no đủ. Đó mang tính biểu thị ý nghĩa thế thôi, nhưng có người không biết, rồi tranh nhau giành nhau thì đó trở thành mê tín. Chúng ta cần hiểu đấy chính là những lễ nghi mang tính chất biểu diễn giáo pháp. Ở nhà cũng thế, khi chúng ta đã hiểu rõ thế rồi, thì chúng ta cứ mang tượng Phật về thắp hương chúng ta thờ, chẳng có sao cả. Để yên tâm thì các thiện hữu tụng một thời kinh, hoặc thỉnh các vị chư tăng đến khai thị cho một thời pháp, rồi liên hương bạch phật là đủ. Đấy là trang trọng. Còn không chúng ta không có điều kiện thì tôi đã nói rồi, thỉnh một pho tượng nhỏ, một bức tranh nhỏ, lúc nào tụng kinh thì bỏ ra, lúc nào không tung kinh nữa thì chúng ta lại cất đi không có sao. Ở nước người ta cũng làm như vậy kể cả thờ cũng tổ tiên cũng thế. Chúng tôi đi sang Hàn Quốc, sang Nhật Bản, và cả Trung Quốc đại lục cũng vậy. Không phải gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên. Người ta có một cái tủ, các đồ thờ ông bà cha mẹ tổ tiên từ bài vị rồi đồ thờ cúng người ta xếp hết vào trong cái hòm. Hôm nào mà giỗ ông bà tổ tiên thì người ta bày ra bàn xong, mang các đồ thờ đó là người ta bày, bài vị rồi lư hương, cây đèn, cây nến, rồi các thứ ta bày. Cúng giỗ xong rồi xong lại lau cất đi, cho hòm khóa lại. Không gian nhà cửa không trông thấy bất kể một không gian thờ cúng nào nhưng lúc thờ cúng hoặc ngày giỗ ngày tết thì người ta bày ra, còn những ngày thường người ta cất đi. Chúng ta thờ Phật mà không có không gian thì chúng ta cũng làm như vậy cũng được, không có sao cả. Cho rằng nay cất đi mai cất đi,  sợ như thế là động. Chúng ta đi đâu cũng chỉ cần có thể tạo cho mình được một cái không gian tụng kinh, lễ bái, niệm Phật. Cho nên xưa kia ngài Huyền Trang đi sang Tây Trúc thỉnh kinh, Ngài có mang bàn thờ đi theo đâu, nhưng mà đến chỗ nào thì vun đất chỗ đó, căm hương tụng kinh không có hương thì Ngài lấy cây cỏ Ngài cắm lên trên mặt đất, rồi Ngài ngồi tụng kinh coi đó là hương là nướt. Tâm chúng ta tưởng thế nào thì thành ra như vậy. Việc thờ phụng và bày ban thờ Phật tùy theo điều kiện chúng ta, nhưng dù có thế nào thì xin thưa các vị là ban thờ Phật phải luôn luôn giữ sạch sẽ, nhiều người chúng tôi thấy là thờ, rồi cắm hương là không dám nhổ chân hương, rồi cứ để cái bát hương cắm rất nhiều để rùm lên, que hương nó phải cong mới có lộc. Đó là dạng mê tín dị đoan, không hiểu Phật pháp. Chân hương ngày nào cũng phải tỉa, bát hương ngày nào cũng phải lau dọn cho sạch, nước cúng Phật thì nên thay hàng ngày. Nước để chúng ta đã dâng cúng Phật thì chúng ta có thể dùng nước lọc, hoặc là nước đã đun sôi để nguội, sau đó chúng ta vẫn có thể dùng nước đó để uống được, coi như là nước thanh tịnh để khi chúng ta có tâm thanh tịnh. Hoa cúng Phật cũng thế, khi đã dâng thì phải dâng những hoa nở tròn đầy, có hương có sắc, nước cắm hoa là chúng ta cũng phải thay thường xuyên, đừng để lâu quá nó thối, nó bẩn, ban thờ phải là không gian sạch sẽ. Thế rồi hoa quả cúng cũng vậy, chúng ta không cần phải cúng nhiều thứ – một đĩa là đủ, không cần phải nhiều, mang ý nghĩa biểu pháp thôi. Thực ra tất cả những cái đồ thờ cúng của chúng ta cũng là mang ý nghĩa biểu pháp, hương là biểu thị cho tín nguyện, hoa là biểu thị cho nhân, cho nên là hoa phải là tươi, hoa tươi là biểu thị cho cái nhân lành, đăng biểu hiện cho trí tuệ, thủy là trà biểu thị cho từ bi. Chúng ta gieo một hạt giống xuống thì phải chăm sóc bằng nước, sưởi ấm bằng ánh sáng mặt trời. Cho nên phải có nước, phải có ánh sáng, đèn chính là biểu thị cho ánh sáng để chúng ta nuôi dưỡng hạt giống, tức là cái hoa của ta bằng ánh sáng của trí tuệ, bằng tình thương của từ bi. Tưới bón như thế sẽ ra được kết quả, quả là biểu thị cho kết quả, do cái nhân lành, gieo cái nhân lành ấy nuôi bằng từ bi và trí tuệ thì nó sẽ ra quả, cho nên chúng ta gọi là hoa thì tươi thì quả thì quả sẽ tốt, nhân lành thì sẽ có quả thiện. Chúng ta còn dâng cúng thực phẩm, dân tộc Việt Nam chúng ta là thường dâng xôi, dâng oản là thức thực phẩm chay. Thực là biểu thị chân thực, thực là biểu thị cho sự no đủ, ấm no. Cho nên những gia đình mà không gian thờ Phật- buổi trưa chỉ cần xới một bát cơm và một chén nước trắng dâng lên bàn thờ Phật, đó gọi là cúng Ngọ. Giống như khi đức Phật còn tại thế, chúng ta xới bát đấy để cúng dàng đức Phật, cúng dàng chư tăng một bữa ăn, nếu có điều kiện, có không gian chúng ta thờ Phật, thì trước khi ăn cơm thì chúng ta xới vào bát cơm nhỏ cùng một chén nước đặt lên bàn thờ Phật, thắp một nén hương với lòng thành kính như vậy cũng là cúng dàng thực phẩm đến chư phật. Hương là biểu thị cho tín nguyện tức là niềm tin và ước nguyện, khi mà chúng ta gọi là dâng hương là chúng ta kèm theo cái ước nguyện của mình vào trong đó, chứ không phải là cầu nguyện nhớ, là chúng ta gọi là liên hương, tức là dâng hương, và trong cái bài dâng hương thì chúng ta đọc cái bài dâng hương bao giờ nó cũng kèm theo – nguyện đem lòng thành kính, gửi theo đám mây hương, cái đó chính là tín nguyện, niềm tin và ước nguyện. Niềm tin ước nguyện ấy được gieo xuống bằng cái bồ đề chủng tử, cho nên chúng ta gọi là hoa. Hòa là nhân lành phải được vun trồng bằng từ bi và trí tuệ sẽ cho quả vô thượng chính đẳng chính giác. Về cái ý nghĩa như thế thì tất cả các cái vật mà gì chúng ta dâng cúng nó không có một cái chỗ nào là mang tính chất là mê tín cả, mà nó đều là biểu thị giáo pháp của đức phật, và khi mà chúng ta hiểu như thế thì khi dâng những vật đó, chúng ta hướng tâm khi đốt một ngọn đèn cúng Phật, chúng ta đưa cái ước nguyện là nguyện cho chúng con, hay nguyện cái trí tuệ của đức Phật khai sáng tâm chúng con, dâng một chén nước cúng dàng đức Phật lên bàn thờ phật, thì nguyện xin cái dòng nước từ bi này thấm nhuần tất cả thế gian ,thấm nhuần tâm niệm chúng con. Khi chúng ta dâng hoa lên cúng Phật, nguyện cho chúng con là gieo được cái nhân chủng bồ đề nơi Tam Bảo. Khi dâng quả lên cúng Phật, nguyện cho chúng con tu hành là phải đắc Bồ đề quả, chứng bồ đề đạo. Dâng thực phẩm lên cúng phật, mong cho chúng con là no đủ sung túc, pháp hỷ sung mãn, pháp thực viên mãn. Khi dâng cúng thì chúng ta dùng tâm quán niệm như thế chính là gì chúng ta đã đang thực hiện một pháp tu, đấy chính là một pháp tu, để chúng ta nuôi dưỡng từ bi trí tuê, gieo trồng nhân chủng bồ đề.

Bây giờ thời gian cũng đã hết, phần thứ nhất trong nội dung của bài hôm nay là thờ Phật xin tạm dừng ở đây, nhân dịp năm mới cho nên bài này chúng tôi nói kỹ một chút, để chúng ta có đi chùa lễ Phật, có ở nhà hàng ngày tụng kinh niệm Phật thì làm thế nào cho đúng và được kết quả tốt đẹp. Kính chúc một năm mới bình an, hạnh phúc và thành tựu trong việc học tập giáo pháp của tất cả quý vị. 

Nam Mô A Di Đà Phật!

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 7 : THỜ PHẬT – LẠY PHẬT – CÚNG PHẬT

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 20.02.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2 LƯỢC SỬ CỦA ĐỨC PHẬT ( PHẦN TIẾP THEO )
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2 LƯỢC SỬ CỦA ĐỨC PHẬT ( PHẦN TIẾP THEO )
Bài 03 LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (tiếp theo) (Từ Thành đạo đến nhập Niết bàn)  ...
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32
BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 32 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
BÀI 4 – BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ – BUỔI 13
BÀI 4 – BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ – BUỔI 13
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 4: BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ ( BUỔI 13 ) ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH Y...
Được xem nhiều