LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 7 : THỜ PHẬT – LẠY PHẬT – CÚNG PHẬT ( Phần Tiếp Theo )

BÀI 7.2

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật!

Hôm nay chúng ta tiếp tục bài thứ Bảy về thờ Phật, lạy Phật, cúng Phật. Hôm trước chúng ta đã đi được phần thứ nhất là “thờ Phật”, nay chúng ta sang cái phần hai lớn là “lạy Phật”. Xin mời các vị chúng ta đọc bài.

Kinh văn:

II. LẠY PHẬT 

1) Ý nghĩa lạy Phật.

Ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, các đệ tử từ vua quan, đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp đức Phật Thích-Ca, đều cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, Trí siêu phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và hoàn toàn tin cậy đối với đức Phật.

Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như còn tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như Ðức Phật còn ngồi trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình.

2) Phải lạy Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa.

Ðể cho đúng với ý nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán mình trên hai lòng bàn tay.

Trước khi lạy Phật, phải dọn mình cho sạch sẽ: rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. Xong xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, tâm tưởng đến các tướng tốt và những đức hạnh cao cả của Ngài, và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình, xá rồi cắm hương vào lư, đánh tiếng chuông và lạy Phật ba lạy.

Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi là “thân tâm cung kính lễ”, nghĩa là thân thì hăng hái tề chỉnh, nghiêm trang, tâm thì hớn hở vui mừng và hết lòng thành kính như gặp được Phật còn tại thế. Trái lại, chúng ta lễ Phật với lòng ngã mạn (trong kinh gọi là ngã mạn lễ), hay với tâm cầu danh (trong kinh gọi là cầu danh lễ), thì đã không có kết quả gì, mà còn mang thêm tội.

Ngã mạn lễ, là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát đất, đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện.

Cầu danh lễ, là khi thấy có đông người thì miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ý để được mọi người khen ngợi. Trái lại khi không có người thì thân lại biếng nhác, tâm lại giải đãi, không muốn lễ bái gì cả.

Hai cách lễ bái trên đây rất giả dối, vậy những ai muốn tiến trên đường đạo, thì phải nên tránh ngay.

3) Bốn phép lạy (thuộc về lý).

Về phương diện lý thì có bốn phép lễ.

a) Phát trí thanh tịnh lễ: Trong phép này, người hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của chư Phật đều tùy tâm hiện bày, nên lạy một đức Phật, tức là lạy tất cả chư Phật, lạy một lạy, tức là lạy tất cả Pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.

b) Biến nhập pháp giới lễ: Trong pháp này, người hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến giờ đều không rời pháp giới.

c) Chánh quán lễ: Trong pháp này, người hành lễ lạy đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên với đức Phật nào khác, vì tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên mãn, bình đẳng và chân giác.

d) Thật tướng bình đẳng lễ: Trong pháp lễ này, người hành lễ không thấy có tự, có tha; người và mình là một, phàm và thánh nhứt như, thế và dụng không hai. Do đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát có nói: “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là người lạy, và đấng mình lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế mới thấu đáo và hợp lý Bát Nhã.

Bốn cách lễ này, lý cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải là bực thượng căn thượng trí, thì không thấu nổi và khó làm theo được.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây chúng ta nói đến lạy Phật hay gọi là lễ Phật, người xưa có nói lễ Phật -giả kính Phật chi đức- lễ Phật là để biểu thị cái sự tôn kính cái đức hạnh, trí tuệ của đức Phật. Cho nên là khi đức Thế Tôn còn tại thế, thì mỗi khi các đệ tử gặp ngài, trong Kinh nói trên từ vua chúa cho đến dân thường đều đỉnh lễ Phật bằng cái cách gọi là ngũ thể đầu địa, tức năm vóc sát đất. Năm vóc là chúng ta bây giờ cũng vẫn nói như vậy, khi lễ là trán của chúng ta là một điểm, hai khủy tay là ba và hai đầu gối là năm. Năm điểm này nó phải tiếp sát đất, ngũ thể đầu địa, tức là năm điểm trên thân thể của chúng ta tiếp sát đất. Khi lễ như vậy thì khi trán chúng ta tiếp sát đất, tiếp sát chiếu. Khi đức Thế tôn còn tại thế thì thường là lòng hai bàn tay của người lễ ngửa ra, và hai bàn tay được nâng cái bàn chân của đức Phật và trán thì được áp sát vào mu bàn chân của Phật. Và giống như người được ôm hôn bàn chân của Đức Phật. Lễ Phật như thế thì biểu thị cái gì, ý nghĩa gì? Sự quy phục chúng ta thường nói là phục ai thì phục sát đất. Cho nên, chỉ có đức Phật là bậc đầy đủ trí tuệ, đức hạnh, xứng đáng để cho trời người quy phục, tức là phục Ngài sát tận đất mà thôi. Đây là cái điểm mà chúng ta gọi- phục ai thì phục sát đất. Phục sát đất là cả tâm phục, khẩu cũng phải phục- phục sát đất. Và cái đó là biểu thị sự quy phục là chúng ta gọi là tâm phục khẩu phục, không còn có một cái lý gì mà không phục. Ý nghĩa thứ hai ở đây chính là biểu thị cái dẹp bỏ được cái ngã mạn. Người ta thì trong tâm có cống cao ngã mạn, cho nên những người mà họ không phục thì không bao giờ họ quy kính ai cả. Họ không bao giờ lễ bái ai cả và không bao giờ chịu phục ai cả. Khi chúng ta đã cúi đầu chắp tay đỉnh lễ đức Phật, tức là chúng ta đã dẹp bỏ hoàn toàn cái ngã ở trong thân tâm của chúng ta, buông hết cái bản ngã của chúng ta để dẹp trừ cái ngã này thì chúng ta mới quy phục đến tận đất này. Cho nên là xưa kia khi Lục Tổ Huệ Năng giảng kinh thuyết pháp, bấy giờ có một vị Tăng đến lễ Ngài, nhưn đầu không dập sát đất. Tổ mới quở – ông học được cái gì mà ông cống cao ngã mạn như vậy? Đến cầu pháp nơi ta mà không dập đầu sát đất. Vị này nói là con đọc tụng Pháp hoa hai chục năm nay rồi, tức là họ có một cái sở đắc nào đó, họ có một cái hiểu biết nào đó, họ cho rằng là họ hơn người, cho nên họ chưa chịu quy phục, nên không có sát đất được. Cái bản ngã nó còn. Cho nên, lễ Phật- ý nghĩa thứ hai là biểu hiện cho chúng ta buông bỏ được cái bản ngã, và bản chất trong Phật pháp nói rằng con người chúng ta vô ngã, nhưng chúng ta vẫn chấp rằng là có cái tôi, có tôi cho nên một khi mà cái tôi nổi lên thì chúng ta không có chịu ai cả, không chịu ai cả, trời cũng không chịu đất cũng không chịu? Thế nên nhiều người trên thế gian rồi gọi là thế trí biện thông, học được một chút rồi, có tài một chút là họ cống cao, ngã mạn, họ không biết đến ai cả, ngay kể cả Phật họ cũng không chịu quy phục. Họ cho rằng là họ chẳng cần phải theo ai cả, họ vẫn có cuộc sống bình an, họ vẫn giàu có, họ vẫn thăng quan tiến chức, đại khái như vậy, tức là trong tâm- ngã rất là lớn. Lễ Phật đầu diện tiếp túc, đầu mặt tiếp xúc với với bàn chân của Đức Phật, thì biểu thị cái là bỏ được cái kiêu mạn, tức là cống cao ngã mạn. Một cái ý nghĩa thứ ba nữa thì chúng ta biết rằng là khi mà mà đệ tử lễ Phật lễ xuống tới chân thật, thì chúng ta biết rằng là chân là cái nơi thấp nhất của của của con người, mà chúng ta quỳ gối dập đầu xuống chân người khác thì chúng ta biểu thị cái gì? Chúng ta là hạt cát nhỏ bé dưới bàn chân của đức Phật mà thôi. Chúng ta chỉ là một chúng sinh rất nhỏ bé, rất tầm thường, rất khổ đau, mà đáng được Phật thương xót và cứu vớt. Cho nên chúng ta mới gì quy y Phật, lễ Phật. Dập đầu dưới chân của Đức Phật, đem tất cả thân tâm tính mạng của chúng ta, là trở về với Phật, cái đó gọi là quy phục và biểu thị cái gì- sự thấp kém của chúng ta trước Đức Phật. Đây là ba cái ý nghĩa chính của việc là lễ Phật, còn ý nghĩa thứ tư nữa mà ngày nay người ta nói rằng là lễ Phật ấy thì xét về mặt khoa học, tức là y học thì nó có rất nhiều các cái tác dụng tác dụng. Y học người ta đã chỉ ra rằng, là mỗi một cái động tác mà khi mà chúng ta nhất tâm lễ phật ý, thì nó làm cho toàn bộ từ thân này, tâm này, các cái cơ quan ở trên cơ thể, rồi từ tay, từ lưng, từ đầu gối đều có sự vận động, sự vận động và khi mà chúng ta thu thúc cả chân tay đầu  mặt gập đầu sát đất, nó làm cho các cái hệ thống xương cốt của chúng ta, gân mạch của chúng ta, rồi ngũ phủ lục tạo nó đều có sự vận động, đều có sự vận động và cái sự vận động ấy nó hoàn toàn phù hợp với khoa học và bây giờ gọi là thể thao. Cho nên như bây giờ nhiều khi tôi nói là nhiều người thì cứ bỏ công bỏ sức đi tập thể dục cho nó tăng cường sức khỏe rồi giảm cân… nhưng bảo lạy Phật một lúc là kêu mệt, kêu hoa mắt, chóng mặt. Y học hiện nay có chỉ ra một điều là Lễ Phật là phù hợp với hoàn toàn là y học và chúng ta gọi là phương pháp thể dục, thể thao. Bây giờ gọi là vận động và tăng cường sức khỏe. Nên nói về về mặt xã hội, có một cái tác dụng nữa. Thế thì phải lễ Phật như thế nào cho đúng, chúng ta biết rằng lễ Phật thì có hai khía cạnh, một là mặt sự, hai là mặt lý. Mặt sự là nói trước khi lễ Phật thì chúng ta phải tắm gội cho sạch sẽ. Nếu không tắm gội được thì buổi sáng thì cũng phải là sáng sớm thì phải đánh răng súc miệng chải đầu. Thế rồi, sửa sang y phục, chỉnh tề lúc bấy giờ mới đến trước bàn thờ Phật, Liêm Hương, lễ Phật. Khi lễ Phật ý thì chúng ta phải đem cả thân, cả tâm ý hợp nhất và thân tâm cung kính lễ, thân tâm cũng kính lễ. Lúc bấy giờ chúng ta đem hết cả thân tâm hướng về Phật. Mắt thì chiêm ngưỡng tôn dung của Đức Phật, hoặc là bằng tranh hoặc là tượng, hoặc là chúng ta sau khi mà nhìn xong thì chúng ta nhắm mắt lại. Chúng ta hồi tưởng như Phật đang ở trước mặt chúng ta. Rồi chắp tay ngang ngực rồi dần dần chúng ta đưa tay lên đến trán, rồi kéo tay xuống, rồi từ từ lạy xuống. Khi chúng ta lạy xuống thì bàn tay phải chúng ta đưa ra phía trước tiếp xúc với mặt đất, rồi đưa bàn tay trái ra, hai bàn tay bằng nhau thì lúc bấy giờ đầu gối, hai đầu gối chúng ta phải tiếp xúc xuống dưới đất, lưng vẫn thẳng rồi từ từ cúi đầu xuống, khi mà đầu của chúng ta chạm với hai bàn tay thì hai bàn tay chúng ta ngửa lên để trán chúng ta tiếp xúc và hai bàn tay, lúc bấy giờ chúng ta tưởng tượng rằng, hai bàn tay chúng ta đang nâng bàn chân của đức Phật, và trán với mặt của chúng ta, tưởng rằng chúng ta đang được nâng chân Phật, mặt chúng ta được hôn lên bàn chân của Đức Phật, cái đó gọi là đầu diện tiếp túc quy mệnh lễ đầu và mặt chúng ta tiếp xúc với chân của đức Phật để quy mệnh đỉnh lễ đức Phật. Lễ như thế thì chúng ta phải hết sức thong thả. Tâm tinh thần là phải hoan hỉ. Thế rồi thân thì phải nhẹ nhàng từng động tác một, chứ không phải là lễ cho lấy nhanh, lấy nhiều, lễ như bổ củi. Lễ rất là thư thái thì chúng ta mới có đủ thời gian để chúng ta chiêm ngưỡng, rồi chúng ta quán tưởng, thế thì một lễ một lạy như thế nó mới có thể tiêu trừ được tội chướng. như thế thì gọi là thân tâm hợp nhất, thân tâm cung kính lễ. Vì vậy trong thân tâm cung kính lễ thì loại trừ hai cái lễ gọi là ngã mạn, lễ ngã mạn tức là gì lễ không đúng cách, năm vóc không sát đất hoặc không đứng hoặc là chỉ chắp tay vái vái không thôi, người ta cho rằng đó là ngã mạn, tức là đầu không dập sát xuống đất. Nhưng ở đây cũng phải nói rõ, ví dụ như người cao tuổi  không đứng được, không lạy theo cách là đứng mà lễ được thì sao thì chúng ta quỳ lễ cũng được, mà trường hợp không quỳ được, tức là quỳ cũng không quỳ được, yếu quá, đầu gối đau thì có thể chắp tay vái cũng được, nhưng phải biểu thị đem hết lòng cung kính. Trong kinh Pháp Hoa nói là ví như có người chỉ cần chắp tay rồi cúi đầu niệm Nam Mô Phật thì cũng đều là nhân thành Phật, nhưng dù chúng ta lễ thế nào thì cũng vẫn phải là biểu thị thân cung kính, tâm phải cung kính, chúng ta mà lạy đứng được mà chúng ta lười không không đứng, mà chúng ta ngồi, hoặc là chúng ta chỉ đứng chúng ta xá không, mà chúng ta không lễ xuống thì cái đó thuộc ngã mạn, cái đó thuộc ngã mạn lễ. Thứ hai nữa là mà chúng ta phải biết là lễ cầu danh lễ, tức là khi mà không có người khác thì chúng ta biếng nhác, không lễ không lạy nhưng mà thấy có người khác thì chúng ta lễ lại rất là cung kính, chẳng qua là chúng ta không phải là lễ để lễ kính Phật và lễ để cho người khác người ta xem, cho người ta nhìn vào thấy rằng chịu khó lễ Phật quá, lễ rất là cung kính, lễ rất đẹp, tức là để lấy tiếng khen, tức là lấy danh – lễ Phật lấy danh. Rồi khoe rằng là tôi lễ được 1000 lễ, tôi lễ được một vạn Phật, ví dụ như vậy. Chúng ta đừng có kể cái chuyện đó. Hoặc là tháng này tôi lễ bao nhiêu lễ, lễ không ấy tự thân chúng ta biết, tự tâm chúng ta biết. Làm sao một lễ một lạy, có thể có người chỉ lễ một lễ thôi nhưng mà bằng người khác lễ cả ngàn lễ, bởi vì thân không như pháp, tâm không cung kính hoặc là chúng ta lễ Phật nhưng tâm chúng ta tà kiến như  là cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu này, cầu khác rồi hoang tưởng về chuyện nọ, chuyện kia thì tất cả những các cái chuyện đó đều là thuộc ngã mạn, đều thuộc là tà kiến, đều thuộc cầu danh mà không phải là lễ Phật trên cái cơ sở quy mệnh đỉnh lễ. 

Phần thứ ba – bốn pháp lạy này thuộc về lý. Ở trên nói về sự, về lý giải thích có 4 phương pháp. Thứ nhất là phát trí thanh tịnh lễ. Ở đây phát trí thanh tịnh, tức là khi lễ làm thế nào để chúng ta phát được trí tuệ thanh tịnh và phát trí thanh tịnh lễ. Trong này giải thích rằng, người hành lễ phải thấu suốt ở cảnh giới của chư Phật đều do từ nơi tâm xuất hiện. Cho nên khi mà chúng ta lễ một đức Phật là lễ hết thảy đức Phật. Cái này là trong cái mười hạnh của Đức Phổ Hiền là “nhất thân phục hiện sát trần thân, nhất nhất biến lễ sát trần Phật” chính là cái câu này, tức là một thân con ấy là hiện thân chư Phật nhiều như số vi trần, một thân con đỉnh lễ chư Phật nhiều như vi trần vậy. Nhất thân phục hiện sát trần thân, nhất nhất biến lễ sát trần thân. Nhưng lễ thế nào, chúng ta phải thân tâm hợp nhất để có thể phát được trí tuệ thanh tịnh, thì phải do giới sinh định, do định phát tuệ. Chúng ta tu học thì phải giữ giới cho thân tâm được thành tịnh, không phải là thân chúng ta thanh tịnh hay là tâm chúng ta thanh tịnh là nhờ vào chuyện tắm rửa đâu. Tắm rửa y phục bên ngoài là chỉ biểu tướng thôi mà quan trọng là tâm có thanh tịnh hay không, dù cho chúng ta có tắm một ngày 10 lần, chúng ta nghĩ rằng chúng ta tắm như thế thân sạch, nhưng mà nếu mà chúng ta tắm 10 lần nhưng mà thân vẫn sát sinh, vẫn trộm cắp, vẫn tà dâm thì thân chúng ta có tắm 100 lần, vẫn là thân nghiệp vẫn là bất tịnh. Dù chúng ta chúng ta có xúc miệng bằng nước muối, xúc miệng bằng cả nước hoa thơm đi chăng nữa, mà miệng nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác, nói lời thêu dệt thì chúng ta có dùng cả nước sông Hằng để xúc miệng chúng ta vẫn hoàn toàn không sạch. Cho nên người ta nói- nói một lời bất thiện, rửa mồm 10 ngày không sạch là như vậy. Ở đây nói rằng, chúng ta mặc áo cho sạch, rồi tắm rửa sạch là nói đến cái biểu tướng thôi. Chứ còn để phát được trí tuệ thanh tịnh thì phải nhân giới sinh định, nhân tịnh phát tuệ. Giới đây là thân chúng ta phải là gì đoạn trừ được ba cái nghiệp ác của thân, tức là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng chúng ta trong sạch ấy là ở cái chỗ là không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói ác khẩu, không nói theo dệt thì đấy chính là khẩu nghiệp thanh tịnh. Ý nghĩa thanh tịnh, tức là thân tâm chuyên nhất. Lúc bấy giờ hướng về Phật thì bấy giờ là trong tâm chúng ta không khởi tham, không khởi sân, không khởi si. Tức là lễ Phật không tham cầu, không có đa cầu, không có sân giận, không có si mê tà kiến, thì lúc bấy giờ ý không tham sân si thì căn bản tam nghiệp mới thanh tịnh. Mà tam nghiệp thanh tịnh thì lúc bấy giờ thân tâm hợp nhất mới trở thành định, từ cái định ấy nó mới phát được trí, phát trí thanh tịnh lễ thì lúc bấy giờ nhất thân mới phụ kiện sát trần thân được. Một thân chúng ta mới có thể hiện trước chư Phật nhiều như vi trần được. Một thân chúng ta tuy rằng đối trước một đức Phật mà lễ, chính là lễ hết thảy chư Phật. Lúc bấy giờ một lễ mới đắc lực, một lễ là lạy hết thảy, một lễ mà chúng ta lạy được hết thảy chư thật thì làm gì mà không là tiêu trừ được hết thảy tội lỗi. Thì biến nhập pháp giới cũng lễ cũng vậy, khi chúng ta lễ thì thân tâm cùng hết thể pháp giới đều là một. Pháp giới của chữ Phật với tâm của chúng ta là nhất như, Cho nên cái này gọi là biến nhập pháp giới. Pháp giới có có hằng hà sa số chư Phật thì chúng ta cũng thể nhập trong pháp giới ấy mà đỉnh lễ tận cùng chư Phật, cái đó là biến nhập. Thế rồi chính quán lễ là lúc bấy giờ là chúng ta nương vào chư Phật ở bên ngoài để đỉnh lễ chư ở trong tự tâm của chúng ta, trong kinh nói là – nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính, cho nên chúng ta tự quy Phật, tức là tự trở về với Phật tính thanh tịnh vốn có, cái này là Phật ở bên ngoài với Phật ở bên trong là nhất như. Cho nên trong kinh Quán kinh có nói- khi mà tâm chúng ta tưởng đến chư Phật thì trong tâm của chúng ta có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Cùng với công đức vô lượng của chư Phật đều hiện rõ nơi tâm, bấy giờ là tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Cái đó là tính Phật. Và thứ tư là thật tướng bình đẳng, thật tướng bình đẳng thì không có mình, không có người, không có Phật, không có ta, hết thảy Phật và chúng sinh vốn tự tính bình đẳng, thân tâm của chúng ta với hết thảy chúng sinh vốn bình đẳng, cho nên có câu: năng lễ sở lễ tính không tịch, cảm ứng đạo giao lan tư nghị. Năng lễ là chúng ta, là người đang lễ. Sở lễ, là đối tượng chúng ta đang lễ, thể tính vốn phẳng lặng, và khi thể tính vốn phẳng lặng như vậy, thì hai thể tính đấy hòa nhập vào một biến mãn pháp giới, cảm ứng đạo giao. Cái này chính là thật tướng bình đẳng lễ. Vì thế trong sách nói có bảy cách lễ, thì ba cách thuộc về sự. Thứ nhất là thân tâm cung kính lễ, thứ hai nữa là ngã mạn lễ, thứ ba là cầu danh lễ, thứ tư là phát trí thanh tịnh lễ, thứ năm là biến nhập pháp giới lễ, thứ sáu là chính quán lễ và thứ bảy là thật tướng bình đẳng lễ. Cho nên về sự – chỉ có một cái cách là thân tâm cung kính lễ là hợp lý. Còn về lý thì có 4, nhưngchúng ta phải thực hành thuần thục về mặt sự, rồi sau đó mới dần dần đi vào mặt lý. Phần sự mà chúng ta không không nhiếp tâm được, một lễ một lạy mà chúng ta không đem thân tâm trở về là một thì thân tâm cung kính chúng ta lại không làm được. Chúng ta lạy một lạy cho đến lạy 100 lạy 1000 lạy, thì nó phải là nhất như. Trong lạy Phật như thế, tâm không phát sinh bất kể một cái tư tưởng, vọng tưởng phiền não là nó phát sinh. Các tổ ngày xưa có nói là ngay kể cả lúc bấy giờ, đất có sụt ngay xuống dưới đất, sấm sét, động đất, hoặc những việc kinh khủng gì xảy ra có thể chết ngay tại chỗ thì vẫn giữ thân tâm cúng kính mà không bị loạn tâm vọng tưởng, không làm cho chúng ta phải sợ hãi, bấy giờ mới đạt đến thân tâm hợp nhất, và thân tâm hợp nhất như thế thì chúng ta mới đi vào phần lý. Quán chiếu khi lễ gọi là động, trong động nó vẫn là giữ được tĩnh nhất Tâm không phát sinh vọng tưởng và quán chiếu khi lễ để cho thân tâm hợp nhất, lúc bấy giờ mới có tác dụng cảm ứng đạo giao, có tác dụng tiêu trừ tội lỗi và tăng trưởng phúc lực.

Chúng ta sang phần III, nói về việc cúng Phật thế nào cho đúng pháp. Xin mời các vị đọc bài.

Kinh văn:

III. CÚNG PHẬT

Cúng Phật là nói tắt, nói cho đủ là cúng dường Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghĩa là cung cấp và nuôi dưỡng.

1. Ý nghĩa về cúng Phật

Có người sẽ hỏi: Tại sao đức Phật đã là bất sinh, bất diệt mà lại còn phải cúng dường? Thật ra, đức Phật đã thoát ra ngoài vòng sinh tử, thì đâu còn hạn cuộc trong sự ăn uống. Nhưng đây chỉ là một hình thức để ngụ ý rằng, mặc dầu Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta, bao giờ cũng xem như Ngài còn tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn-na thí chủ đã cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn tiếp tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng ta gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên cạnh Phật. Cũng nhơn sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ rệt cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của Ngài.

2. Phải cúng Phật với những gì? (Về sự).

Vẫn biết rằng chúng ta nên cúng dường Phật để hình dung như Ngài còn tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật, lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật.

Vậy muốn cúng Phật đúng ý nghĩa thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là đủ.

3. Năm món diệu hương để cúng Phật.

Ðoạn trên là nói về Sự, về hình tướng bên ngoài để cúng Phật. Còn về phương diện Lý, thì phải dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau:

a) Giới hương: Pháp thân của Phật rất thanh tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đã dùng hương trầm đốt cúng, thì về mặt Lý, chúng ta cũng phải trì giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự và Lý.

b) Ðịnh hương: Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi mãi trong tình trạng ấy, thì chúng ta chẳng tu hành gì được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, hằng sát-na chúng ta phải cố gắng tập định tĩnh tâm hồn, đừng để cho những ý nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư lắng xuống, như thế là dùng Ðịnh hương cúng Phật.

c) Huệ hương: Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quý báu của chư Phật và thánh hiền Tăng; Tư huệ là đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm thực hành những điều mình cho là phải, trừ bỏ những điều mình cho là trái, thực hiên đúng đắn giáo lý sáng suốt của Ðức Phật.

d) Giải thoát hương: Giải thoát hương cúng Phật là quyết tâm phá trừ ngã chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận chiếc thân tứ đại này là mình, cũng không nhìn cái nghiệp thức phân biệt là mình, để được thoát ly ra ngoài vòng sinh tử luân hồi.

đ) Giải thoát tri kiến hương: Chúng ta đã biết quán vô ngã, để phá trừ ngã chấp thì được giải thoát, song vẫn còn “Pháp chấp” ràng buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. Còn Pháp chấp nghĩa là còn thấy các pháp như: đất, nước, gió, lửa là có thật; còn thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật là vì chúng ta còn ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác, như cá chẳng hạn, thì nước đâu phải là nước như chúng ta quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà cửa; đối với loài mọt, thì gỗ đâu phải như chúng ta quan niệm, mà là những thức ăn và nhà ở; cho đến vui, buồn, sướng, khổ đều là đối đãi với nhau mà sinh ra. Vậy thì Pháp cũng như Ngã, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là “Giải thoát tri kiến hương” cúng Phật.

4. Cúng dường Pháp bảo.

Pháp bảo là các Pháp của Phật đã giảng dạy, để cho chúng sinh y theo đó mà tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải học kinh, luật, luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định thế nào là Pháp bảo, là chánh giáo. Nếu chúng ta có học thực rộng thì phải nghĩ đến việc phiên dịch các kinh điển ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sinh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những vấn đề có liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh thì nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản kinh điển để phổ thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng dường Pháp bảo cả.

5. Cúng dường Tăng bảo.

Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật, thì tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đã thay Phật mà truyền giáo lý của Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng dường Tăng bảo.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nói đến cúng giàng Tam Bảo, chữ Hán là chữ cúng dường đấy, đọc thành cúng dàng hay đọc là cúng dường. Cúng là cung cấp, dưỡng là nuôi dưỡng. Chúng ta đọc chữ cung dưỡng thì nó không có trang trọng, cho nên người ta đọc là cúng dàng, nhưng mà vì chính vì đọc thành chữ cúng cho nên là người ta nghĩ rằng là cứ phải dâng lên, rồi thành ra là cúng lễ, chứ chính của nó là cung dưỡng, cung là cung cấp, dưỡng là nuôi dưỡng. Ở đây cung dưỡng Tam Bảo tức là gì, cung cấp và nuôi dưỡng Giác Chính và Tịnh, Phật là Giác mà, Pháp là Chính, mà tăng là Tịnh. Cúng dàng Tam Bảo là để chúng ta cung cấp nuôi dưỡng sự giác ngộ, sự chân chính và sự thanh tịnh cho chính bản thân chúng ta. Khi Đức Phật còn tại thế, người ta cúng dàng đức Phật bằng hai thứ cúng dàng, một là tâm cúng dàng. Tâm cúng dàng là biểu thị sự cung kính và quy y. Cho nên chúng ta đọc là con xin quy Phật, đấy là chính là sự cúng dàng. Thế còn cúng dàng Đức Phật về mặt vật chất. Thời Đức Phật thì có tứ sự – có bốn thứ cúng dàng. Thứ nhất là ẩm thực, đồ ăn uống. Thứ hai là y phục, tức là quần áo để mặc. Thứ ba là sàng tọa, sàng tọa tức là giường chiếu và đồ dùng để phục vụ cho đời sống hàng ngày, và thứ tư chính là thuốc men để chữa bệnh.  Gọi là bốn thứ cần dùng. Tứ sự, cho nên chúng ta học Phật chúng ta thường hay nói là tự sự cúng dàng, tức là bốn món cúng dàng, hay bốn việc cúng dàng, đó là ăn uống, y phục (quần áo), sàng tọa là những vật dùng cho để nằm để nghỉ và thứ tư là thuốc chữa bệnh. Chúng ta nên hiểu thế này, khi Đức Phật đã thành vô thượng chính đẳng chính giác, thì Ngài vẫn còn thân hữu lậu là thân con người. Các bậc thánh A La Hán cũng vậy, cho đến các vị Bồ tát cũng vậy, vì mang thân con người ấy cho nên hàng ngày phải ăn uống để duy trì mạng sống. Vì thế, Đức Phật hàng ngày vẫn phải đi khất thực và người ta cúng dàng đức Phật các món ăn để cung cấp và nuôi dưỡng cái cái thân tứ đại. Thứ hai, thân thể thì có nóng lạnh, cho nên cần phải có y phục, vải vóc để mặc, để che nóng che mưa, thế rồi ngăn mồng muỗi để bảo vệ thân thể. Cho nên y phục là sự cần thiết và dù các Ngài có thành Phật, dù có ngủ ít thì tối cũng vẫn phải nằm nghỉ, vẫn phải có nhà cửa, vẫn phải có sàng tọa. Cho nên  cúng dàng sàng tọa đến Đức Phật và Chư Tăng là điều cần thiết. Và thứ tư đã có thân này là phải có bệnh, sinh già bệnh chết không thể tránh được. Vì thế, đức Phật cũng vẫn cần phải có thuốc chữa bệnh, chư Tăng phải cần có thuốc chữa bệnh và các vị Thánh Tăng A La Hán cho đến Bồ Tát cũng phải cần có thuốc chữa bệnh. Vì thế Đức Phật cho phép người xuất gia tiếp nhận bốn thứ này từ Phật tử, tín đồ tại gia. Đó là thức ăn uống, quần áo, các đồ dùng cá nhân phục vụ cho sinh hoạt như là sàng tọa và thứ tư là thuốc chữa bệnh. Ngày nay thì đức Phật nhập diệt rồi, chúng ta biết rằng Đức Phật đã nhập diệt rồi thì chúng ta dâng cúng các vật đó thì Đức Phật có dùng không? Không, chúng ta kể cả là tại gia chúng ta có làm cơm, làm cỗ để cúng Phật, hoặc ở chùa có làm cỗ làm chay để cúng Phật thì chúng ta đừng nghĩ rằng cúng như thế là Phật và Bồ Tát đến ăn. Nếu mà chúng ta nghĩ như thế là hoàn toàn tà kiến đấy. Không có một vị Phật vị Bồ Tát nào đến ăn cả, kể cả chúng ta ở nhà chúng ta có cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là người phàm, có trường hợp đức Phật nói duy nhất là chỉ có trường hợp là ngã quỷ có thể ăn được các đồ cúng của nhân gian. Chứ còn ngoài ra là cõi trời, nếu đã sinh lên cõi trời người ta cũng không dùng thức ăn của nhân gian, sinh lại cõi người là không ăn được. Bởi vì là chúng ta mà đổi thân, đổi xác làm người khác rồi là không có ai về mà ăn cỗ cúng được cả. Thế rồi vào trong địa ngục là không ra được, ngã quỷ thì mới ăn được và súc sinh cũng không tới ăn được. Cho nên, khi mà chúng ta bày cúng, kể cả cỗ bàn trai đám thì không có một trường hợp nào mà chúng ta gọi là cúng Phật và chư Phật ăn cả. Cũng không có một trường hợp nào, cúng Bồ Tát mà Bồ Tát hiện thân đến để ăn cỗ cúng cả, cái này hoàn toàn không có. Vậy không ăn tại sao vẫn cúng. Đức Phật đã có trả lời trong Kinh rồi. Cúng để kỷ niệm, bởi vì vua Ba Tư Lặc có hỏi Đức Phật là chúng con cúng giỗ bố mẹ, ông bà, cha mẹ tổ tiên ấy thì có ai ăn được không? Đức Phật nói rằng là chỉ có mỗi ngã quỷ ăn thôi, mà không phải là bất kể một người nào chết cũng thành ngã quỷ. Cho nên là ông bà tổ tiên của chúng ta, ví dụ như là chết xong, chúng ta biết rằng là luân hồi sinh tử, khi thần thức ra khỏi thân là đi đầu thai kiếp khác rồi, chậm thì 49 ngày đã đầu thai rồi, mà đã đầu thai rồi làm gì ra còn có ai quay về mà ăn nữa. Đến ngay người phàm còn không có chuyện là quay về ăn, đừng nói là là Phật Bồ Tát. Nhưng mà nhà vua hỏi vậy hỏi- Bạch Đức Thế Tôn, vậy không có người ăn thì cúng để làm gì. Đức Thế Tôn đã nói rằng cúng để kỷ niệm, tức là cúng ở đây mang tính tưởng niệm người đã mất, chúng ta cúng Phật là để tưởng niệm như Phật còn tại thế. Chứ đừng nghĩ rằng chúng ta cúng để Phật hoặc Bồ Tát sẽ thụ dụng cái đồ ăn đó rồi phù hộ cho chúng ta. Chúng ta nghĩ như thế là tà kiến, nghĩ thế hoàn toàn là sai lầm. Trước tôi nói là ngày nay chúng ta sẽ cúng Phật bằng sáu thứ, hương – hoa – đăng – trà – quả – thực và sáu thứ này đều mang tính biểu pháp. Cho nên, cúng thực thì có thể là chỉ cần một bát cơm trắng là đủ. Không cần phải là chúng ta phải làm cỗ chay hoặc là làm những cái món này món kia mới có thể cúng Phật được. Bởi vì không có ai ăn cả, đây là chúng ta biểu thị tấm lòng, sự thành kính nhưng mà sự thành kính ấy nó phải là chính tín, chứ đừng có xen lẫn cái tà kiến mê tín vào đấy rằng cúng cái này mới được, cũng cái kia là không được rồi, cúng thế này thì không phải cúng cái kia thì không phải vân vân. Cho nên chúng ta cũng không cần quá cầu kỳ rằng- ngày giỗ, ngày Tết thì chúng ta phải làm mâm cơm chay để cúng Phật, Điều đó tùy khả năng chúng ta làm được thì làm, cũng không nhất định phải làm, chứ còn nếu mà chúng ta không làm được, chúng ta phải đi đặt cỗ chay rồi nhờ thuê người khác làm thì thôi. Xin miễn, tốt nhất là nấu cơm trắng và cúng một bát cơm trắng là đủ. Bởi vì chúng ta biết rằng- cỗ chay, bây giờ là dù cho người ta có làm chay đi chăng nữa, chưa chắc đã sạch sẽ như Pháp đâu. Tôi nói điều này tôi phải nói thật. Thứ hai nữa là cỗ chay bây giờ làm theo cái món mặn, tức là làm theo hình dáng món mặn, làm theo mùi vị của món mặn thì ngay tâm thái làm cỗ như vậy thì tâm không thanh tịnh rồi. Cho nên tốt nhất thà bằng không, không cúng thì hơn, cúng là phải tự thân. Chúng ta làm biểu thị cái sự thành tâm mà còn không làm được thì thôi, một bát cơm trắng là được. Bởi vì khi Đức Phật còn tại thế đi khất thực có phải ai cũng nấu cả mâm cỗ mang ra cúng Phật đâu. Nhà người ta có cơm thì cúng cơm, có rau thì cúng rau mà bây giờ chúng ta thấy Phật giáo Nam truyền, chư tăng đi bát cũng thế thôi, người ta chỉ một cái âu cơm bưng ra rồi người ta xúc cúng cho mỗi vị có một một thìa thôi và kết duyên. Vậy thì chúng ta cúng Phật một chén cơm nhỏ là được. Cái đó biểu hiện cho là hương hoa đăng trà quả và thực? Cho nên ở chùa, chùa mà truyền thống là bữa trưa là bao giờ cũng xới một bát cơm nhỏ, một chén nước dâng lên cúng Phật, cúng tổ rồi đánh ba tiếng chuông, thắp nén hương, đánh ba tiếng chuông coi như là thỉnh Phật thụ trai, cũng giống như là khi Phật còn tại thế, một miếng cơm, một chén nước dâng lên là đủ rồi. Nó biểu thị cái sự thành tâm và thành kính, không nhất thiết là phải bày đặt là cỗ bàn hoặc là hoa quả quá rườm rà. Chúng ta có cái gì chúng ta cúng cái đó, nhưng mà phải đảm bảo là gì sạch sẽ, thành kính mà như Pháp. Cho nên ở đây nói là nói về sự. Phật đã nhập niết bàn rồi, cho nên cúng 6 món. Hương biểu thị tín nguyện, hoa là biểu thị nhân lành, đèn tức là đăng là biểu thị cho trí tuệ, nước là biểu thị chứ từ bi, quả là biểu thị cho nhân lành, quả tốt, Thực- thực là thức ăn thì chúng ta cúng chén cơm, biểu thị cho sự chân thật và no đủ, như thế là sáu món, lục cúng là thế. Còn về mặt ý nghĩa, chúng ta dâng hương thì ở đây nói là chúng ta cúng dàng Phật bằng năm phần hương tốt. Bên ngoài thì chúng ta dùng các cái loại hương để biểu thị, nhưng mà đó là hương trần, còn dâng hương cung Phật chính là biểu thị cúng dàng năm cái thứ hương, thực ra đã nói là năm cái tiến trình tu tập, nó cũng là phần tạo nên pháp thân Phật, cho nên gọi là ngũ phận pháp thân. Pháp thân của Chư Phật được thành tựu bởi năm yếu tố, một là giới, hai là định, ba là tuệ, bốn là giải thoát và năm là giải thoát tri kiến. Do đó chúng ta cũng đem cái công đức tu tập về giới, về định, về tuệ, về giải thoát, và giải thoát tri kiến đây là thành quả đẹp nhất, đó là những bông hoa tươi tốt nhất để dâng lên cúng Phật. Chúng ta cúng Phật là giới hương, tức là gì? Hương của giới Đức, trong kệ Pháp cú: hương của các loài hoa thì không bay được ngược chiều gió, chỉ có hương của người đức hạnh thì ngược gió khắp tung bay. Chúng ta đem cái giới hạnh của chúng ta, giữ giới về thân, giữ giới về miệng, giữ giới về ý, đem giới hương này dâng lên cúng Phật. Do giới thì sinh định nên chúng ta phải tụ tập cái gọi là định, bằng cách là giữ tâm ấy luôn luôn ổn định, không có phiền não, không có sân hận, không có tham sân thì cái đó thuộc về định. Do định thì phát tuệ, do phát tuệ rồi thì chúng ta mới chứng đắc được giải thoát. Do giải thoát rồi thì có tri kiến về sự giải thoát. Cho nên giải thoát tri kiến, tức là sự hiểu biết về để giải thoát ấy. Đức Phật giải thoát rồi, ngài biết ngài đã giải thoát và ngày đem cái giải thoát đó để giảng dạy cho người khác, cái đó gọi là giải thoát tri kiến. Năm cái này gọi là ngũ phật pháp hương thân, tức là năm cái phần pháp thân của Phật được kiến tạo bằng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến và đây cũng chính là năm cái lộ trình tu tập của bất kể một người nào. Chúng ta bắt đầu tu tập từ giới, rồi tu tập định, tu tập tuệ rồi tự đạt đến giải thoát, giải thoát tri kiến. Tùy theo mức độ tu tập của chúng ta cao hay thấp mà chúng ta có cái gì năng lực về 5 cái món hương này khác nhau, có người là đạt được giới hương, có người tu tập cao hơn chút nữa thì đạt được định hướng, có người tu tập cao hơn nữa thì có thể là phát sinh ra tuệ hương rồi, chứ còn ít nhất thì chúng ta cũng phải có cái giới hương này. Nhiều khi ngay cái giới hương này chúng ta cũng không trọn vẹn. Thế nên cúng dàng Đức Phật bằng năm món là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Đó là cúng dàng Phật. Nhưng mà quan trọng hơn là chúng ta cúng dàng bằng cái tâm của mình chứ không phải là cúng dàng bằng thân.

Ở đây tôi nói một câu chuyện khi Đức Phật còn tại thế, cuối đời đức Thế Tôn có lên cung trời Đao lợi thuyết pháp cho thân mẫu mà Phật giáo Bắc truyền của chúng ta nói rằng khi đó Đức Phật thuyết Kinh Địa Tạng. Khi kết thúc ba tháng ở trên cung trời Đao Lợi, đức Phật trở về nhân gian. Ngày hôm đó là đã được thông báo trước và tất cả dân chúng vua quan, các vị Tỷ Khiêu và Tỷ Khiêu Ni là tranh nhau đến để đón Đức Phật và Chư Thiên đã làm ba cái cái bậc thang từ cõi trời xuống nhân gian ấy, và cái bậc thang ở giữa bằng vàng, hai bên thì là bằng bạc và bạch ngọc. Đức Phật đi bậc thang đó từ trên trời xuống, và khi ngài đặt chân xuống dưới đất thì người đầu tiên mà muốn lễ Phật, đến lúc bấy giờ có vị Tỷ Khiêu Ni là bà Liên Hoa Sắc, là thần thông đệ nhất trong hàng Ni chúng, và bà ấy muốn thể hiện rằng là Ni chúng cũng không kém gì, tức là người nữ không kém gì người nam cả. Và bà muốn trong nhân gian, người đỉnh lễ đức Phật đầu tiên ấy là Tỷ Khiêu Ni. Vìcó thần thông, bà hiện thân làm vua Chuyển Luân Thánh Vương. Và khi đức Phật bắt đầu đặt chân xuống trái đất này thì vị Chuyển luân thánh vương lúc bấy giờ lễ sụp dưới chân của Đức Phật. Nhưng đức Phật thì biết ngay là đó là Tỷ Khiêu Ni, cho nên là Ngài có thu chân lại. Bởi vì Ni chúng, là người Nữ dù có tu hành chứng đắc thần thông cũng không được tiếp xúc vào chân của đức Phật, ngày xưa gọi là đầu diện tiếp túc quy mệnh lễ, chỉ có người nam được tiếp xúc với Đức Phật thôi, chứ thực tế là người nữ thời đức Phật không ai được phép tiếp xúc với bàn chân của đức Phật cả. Vào lúc bấy giờ bà Liên Hoa sắc là hiện thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, tức là người nam tử đấy, muốn đỉnh lễ tiếp tục Đức Phật. Nhưng khi Đức Phật chuẩn bị đặt chân xuống dưới mặt đất này thì ngài biết ngay người đang đang giơ cái bàn tay để đỡ cái bàn chân của Đức Phật là Liên Hoa Sắc và Đức Phật đã không đặt chân xuống và Đức Phật quở trách Tỷ Khiêu Ni Liên Hoa Sắc là không được dùng thần thông để làm chuyện như vậy. Và Đức Phật nói rằng, người lễ ra đầu tiên không phải là sư cô, mà chính là ngài Tu Bồ Đề. Bấy giờ ngài Tu Bồ Đề lại không có mặt ở đó, mà ngài Tu Bồ Đề không đi đón Đức Phật, ngài biết là hôm nay Đức Phật sẽ về, mà tất cả mọi người đi đón, riêng ngài Tu Bồ Đề không đi đón, ngài ở trong thất của mình nhập định và đón Đức Phật ấy bằng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến chứ không đến tận nơi rước Đức Phật. Đức Phật nói rằng người đầu tiên đón Đức Phật không phải là những người có mặt tại hội chúng này, mà cũng không phải là Tỷ Khiêu Ni Liên Hoa Sắc, mà là ngài Tu Bồ Đề – người  không có mặt ở đó. Cho nên, lễ Phật không phải là ở biểu thị bằng là vật phẩm ấy nhiều hay ít, giá trị hay không, giá trị bày biện thế nào, mà ở cái chỗ tâm của chúng ta có đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hay không? Nếu chúng ta có như vậy thì sẽ là người đầu tiên được tiếp đón Đức Phật và được đỉnh lễ Đức Phật.

Một câu chuyện thứ hai nói trong giới luật có hai vị Tỷ Khiêu đi từ xa, muốn yết kiến đức Phật thì trên đường đi khát nước và lúc bấy giờ đến một cái ao nước thì ao cạn và có trùng. Cho nên một vị Tỷ Khiêu lớn tuổi vì giữ giới cho nên không uống nước, khát nước mà chết. Còn vị kia thì mong muốn được đến gặp Đức Phật, mặc dù nước có trùng vẫn uống mà vị đó đến. Được gặp gặp được đức Phật nhưng bị Đức Phật quở trách. Đức Phật nói rằng – vị kia vì giữ giới mà chết thì đã đến gặp ta từ lâu rồi. Còn ông ấy tuy có giáp mặt ta, nhìn thấy mặt ta nhưng cách xa ta vạn dặm, cho nên là không phải ở chỗ là chúng ta có lễ phẩm gì cao hay thấp, hoặc nhiều hay ít mà ở cái chỗ tâm chúng ta có thanh tịnh không, tức là có giới hay không, có định hay không, có tuệ hay không, có giải thoát, có giải thoát tri kiến hay không, khi đó chúng ta mới tiếp xúc được với Phật, đó là những lễ phẩm quý nhất để dâng cúng Phật. Chúng ta ở ngoài thời gian, mỗi người là một bông hoa đẹp. Làm thế nào để chúng ta trở thành cái bông hoa giới, bông hoa định, bông hoa tuệ, bông hoa giải thoát, giải thoát tri kiến thì chúng ta có cả một cái lẵng hoa rất là đẹp. Nhưng tâm chúng ta giới đức không thanh tịnh, thì chúng ta dù có một cái lẵng hoa đẹp như thế dâng cúng Phật, Phật cũng không tiếp nhận, dù chúng ta không có một bông hoa nào dâng lên Phật, dù không có một nén hương nào dâng cúng Phật, dù chúng ta không có tới chùa để lạy Phật như trường hợp của ngài Tu Bồ Đề, nhưng vẫn là người được lạy Phật đầu tiên, như vị giữ giới mà chết vẫn là người gặp Phật đầu tiên đấy. Ý nghĩa về mặt lý là ở chỗ này, cho nên chúng ta đừng có phiền rằng mình nghèo, mình khó, mình không có khả năng để cúng, để dâng bàn thờ cho nó trang nghiêm, rồi tủi thân, không phải ở chỗ đó, mà ở chỗ là chúng ta phải biết – chúng ta có giới, định, tuệ hay không, có tu tập thật sự hay không, để xem những cái thành tích tu tập của chúng ta. Đấy là những các vật phẩm cúng dàng tốt nhất, đẹp nhất dâng lên cúng Phật.
Ở đây gọi cúng dàng Pháp, trong Kinh thì đức Phật nói cúng dàng chung, cúng giàng pháp là tối thượng. Cúng dàng pháp là thế nào, cúng dàng pháp có năm cách. Một là đọc tụng chúng ta đọc tụng lời Đức Phật đấy là khi mà chúng ta tụng kinh ấy, chính là chúng ta đang cúng dàng pháp. Đọc tụng là cách cúng dàng thấp nhất. Thứ hai là biên chép, tức là chúng ta chép kinh. Nhiều người cho rằng là ngày nay thì không còn ai chép kinh nữa, nhưng thực ra chúng ta chép Kinh công phu nó cao hơn đọc tụng nhiều. Bởi vì khi chúng ta để chuyên tâm vào chép một bản kinh, thân tâm chúng ta phải đem hết sự kính, rồi nắn nót viết từng chữ, khác hẳn với chuyện bây giờ nhiều người cho rằng mình bỏ tiền ra in Kinh thì cũng giống như chép kinh, không. Bỏ tiền ra in kinh có công đức không lớn bằng chép kinh, chép một bộ kinh là công đức khác hẳn. Thứ nhất là đọc tụng thứ hai là biên chép, thứ ba là thâm nhập, thâm nhập tức là chúng ta hiểu đấy, hiểu nghĩa lý đức Phật dạy, cho nên bây giờ lại là phải nghe giảng để hiểu cái bộ kinh đó là thế nào. Thứ tư là thuyết- là khi chúng ta hiểu rồi thì chúng ta có thể có khả năng nói lại cho người khác nghe. Nhưng bốn thứ đó thì công đức không bằng công đức thứ năm ấy là hành trì. Đức Phật nói-cúng dàng Pháp cao nhất chính là thực hành theo giáo pháp, đem thân của chúng ta, đem tâm của chúng ta để thực hành lời Phật dạy, thì người đó chính là đang cúng dàng giáo Pháp của Đức Phật. Không một nén hương, một bó, một đồng tiền cắc bạc nào. Nhưng mà chúng ta hàng ngày, hàng giờ chúng ta vẫn đang cúng dàng pháp đang cúng dàng Phật là chúng ta đang thực hiện lời Phật dạy ở mọi nơi mọi lúc. Cái đó gọi là như Pháp, hành trì hay là y giáo Phụng hành chúng ta gọi là đúng như lời Phật dạy mà thực hành. Cho nên cuối các bản kinh Phật đều hoan hỉ tín thụ phụng hành. Chúng ta phải vui vẻ tin, tiếp nhận và thực hành lời Đức Phật dạy cái đó chính là cúng dàng pháp.

Thứ ba là cúng dàng tăng. Ở đây chư Tăng, bất kể những người nào xuất gia chân chính, không kể tông nào, phái nào, có phải là thầy dạy chúng ta hay không đều dựa vào trong hàng tăng bảo. Đã là tăng bảo thì đều là những người thực hiện lời Phật và duy trì Phật pháp ở thế gian và làm cho Phật pháp tồn tại. Cho nên người xưa có nói là Phật thì quá khứ nhưng mà tăng là hiện tại. Cho nên chúng ta biết đến phương pháp là thông qua chư Tăng. Cúng dàng chư tăng là để chúng ta – thứ nhất là kết cái nhân duyên với chư tăng, khi mà chúng ta cúng dằng một vị tăng nào đó mà tương lai các vị tu hành, rồi tương lai các vị đắc đạo thì nhất định chúng ta cũng có pháp phần, chúng ta sẽ được các vị sẽ độ cho chúng ta. Cho nên là xưa kia đức Phật dạy chư Tăng đi khất thực là để kết duyên, trước hết là kết duyên với chúng sinh, ăn một miếng cơm của người ta, mặc một miếng vải do người ta cúng, thì nhất định phải tri ân và báo ân. Tri ân, báo ân là thế nào? Tương lai tu hành nguyện thành Phật sẽ phải độ cho hết tất cả những chúng sinh mà đã tạo nên giới thân tuệ mạng, tạo nên cuộc sống tu hành của tôi, giúp đỡ cho tôi thì trước hết ơn đó giống như ơn ân của cha mẹ, phải hóa độ. Cho nên chúng ta cúng dàng Chư Tăng là để trước hết là kết duyên. Thứ hai nữa là tạo điều kiện để cho chư Tăng có đủ điều kiện để tu học. Nhưng mà đây chúng ta phải cúng dàng như pháp thì mới có công đức, nếu cúng dàng mà phi pháp là không có công đức. Đức Phật nói rồi, cúng dàng phi pháp – trái pháp ý thì cái người cúng và cả người nhận cúng cả hai đều đọa. Những thứ Phật không cho phép dùng, những thứ Phật không cho phép chúng ta cúng dàng, hoặc những thứ đó mà cúng dàng thì có thể dẫn đến sự tu hành đọa lạc của những người xuất gia thì bản thân chúng ta có tội. Cho nên, đức Phật nói- cả người cúng và người nhận cúng- đều đọa. Cho nên chúng ta có bổn phận cúng dàng tăng. Đức Phật nói người tại gia thì thực hành tài thí, và người xuất gia thì thực hành pháp thí.  Nhưng hai điều này đều phải như pháp. Và đây chính là việc mà chúng ta nói đến phần thứ ba là cúng dàng Phật, Pháp, Tăng.

Còn phần nữa là phần kết luận, xin các vị đọc nốt để chúng ta kết thúc bài này.

Kinh văn:

C. KẾT LUẬN

1. Lợi ích của sự thờ lạy và cúng Phật

Như các đoạn trên đã nói, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do lòng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đã hy sinh tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sinh. Lý do thứ hai của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng ta luôn luôn có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu hoàn toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ý nghĩa, thì sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai:

a) Trong hiện tại: Mỗi chúng ta và gia đình chúng ta, bao giờ cũng như sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành, đạo vị của chư Phật. Chúng ta luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ nghi, trên thuận dưới hòa, vì mỗi ý nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của đức Phật soi xuống. Chúng ta không dám sống bừa bãi, làm xằng, nghĩ quấy khi đức Phật đang ngự trị trong gia đình và trong lòng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rỗng, không tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào, mới dễ sa ngã, trụy lạc.

Cho nên trong gia đình, nếu muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống có ý nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc, thì người gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền lương và có đạo vị.

b) Khi lâm chung: Nghiệp lành mà chúng ta đã huân tập trong hằng ngày sẽ cảm ứng đến lòng từ bi vô hạn của chư Phật và Bồ tát. Do “Luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, chư Phật và Bồ tát sẽ phóng quang đến tiếp dẫn giác linh chúng ta về cõi Tịnh độ an vui, tự tại.

2. Khuyên phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và cúng Phật, Pháp, Tăng.

Muốn có được kết quả tốt đẹp như trên, chúng ta phải phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy và cúng dường Tam bảo một cách sai lạc thì không những không ích lợi gì cho ta mà lại còn mang thêm tội, và trôi lăn mãi trong cảnh sinh tử luân hồi. Chúng ta phải tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng:

a) Ðức Phật là bực hoàn toàn giác ngộ, siêu sinh, thoát tử, có năng lực độ thoát chúng sinh khỏi nẻo luân hồi, và xứng đáng làm thầy chúng sinh trong ba cõi. Vì thế nên chúng ta thờ Ngài.

b) Phật pháp là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả nguyên nhân đau khổ của chúng sinh, vì thế cho nên chúng ta thờ Phật pháp.

c) Chư Tăng, nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những thầy sáng, bạn lành của chúng ta. Vì thế, chúng ta kính thờ, thân cận các Ngài để học hỏi đường lối tu hành.

d) Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí tâm tu tập theo Phật pháp, thì chắc chắn sẽ thành Phật.

đ) Lý nhân quả không hề sai chạy, nếu tạo nhân lành thì hưởng quả tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành nào thù thắng hơn là nhân “thờ Phật, lạy Phật, và cúng dường Tam Bảo”, đủ cả Sự và Lý. Vẫn biết thờ, lạy và cúng Phật đủ cả hai phương diện Sự và Lý là khó, nhưng chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô lượng vô biên Kim Cang Bồ tát và Hộ Pháp thần vương, đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả người phát tâm chánh tín thờ cúng Phật, thì lo gì công của chúng ta không tròn, quả của chúng ta không mãn?

Giảng giải chi tiết:

Ở đây phần kết luận thì tổng kết lại các cái ý nghĩa ở trên, đây thì tôi chỉ nhắc lại mấy điểm mà chúng ta phải lưu ý. Chúng ta là đệ tử của Phật, phát tâm học Phật. Nếu trong điều kiện gia đình chúng ta có thể lập được một bàn thờ Phật là điều tốt nhất để cho mọi người nhìn thấy tôn dung của đức Phật. Không gian thờ Phật trở thành cái đạo tràng cho bản thân mình và quan trọng hơn nữa là cả gia đình cùng tu học, để kết nhân duyên với Phật Pháp. Hình ảnh của đức Phật luôn luôn hiện diện trước mặt chúng ta thì khiến cho chúng ta, khi chúng ta mắt nhìn thấy thì tâm tưởng đến công đức, đạo hạnh, từ bi, trí tuệ của Phật để chúng ta khởi tâm tín ngưỡng, khát ngưỡng và học tập theo. Mỗi khi phiền não nghiệp chướng nó xuất hiện thì chúng ta nhìn thấy Phật, chiêm ngưỡng tôn dung Phật được thân cận thì khiến cho chúng ta tâm được an định và phát khởi được trí tuệ. Do đó, chúng ta phát tâm học Phật, tôn thờ Đức Phật, cúng dàng đức Phật và thực hành lời Phật dạy, đó cũng là bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử. Chúng ta thể hiện cái tinh thần quý kính, tri ân, báo ân và quan trọng hơn nữa, đó là đạo tràng. Đó là phương pháp để chúng ta tu dưỡng hàng ngày. Chúng ta thờ Phật với mục đích như vậy giúp cho thân tâm giảm bớt đi được những phiền não nghiệp, không bị hệ lụy vào những điều sợ hãi khủng bố tinh thần của tà giáo ngoại đạo. Chúng ta thờ Phật với tinh thần như vậy là không phải là để cầu xin ban cho điều này hay cầu xin điều kia, mà giúp cho chúng ta có nơi nương tựa về mặt tinh thần, để hàng ngày chúng ta đi theo, thực hành theo những lời Đức Phật chỉ. Chúng ta đã cúng Phật, cúng dàng Pháp, cúng dàng Tăng, để chúng ta trở về với bản thể Phật tính thanh tịnh vốn có của chúng ta, trở về với bản thể chính pháp tự tính của chúng ta, trở về với bản thể thanh tịnh hòa hợp tăng vốn có của chúng ta, để chúng ta có đủ công đức, có đủ năng lực nương tựa vào Phật Pháp Tăng bên ngoài trở về với Phật, Pháp, Tăng của tự tính – như thế thì mới không uổng. Một đời này chúng ta được sinh ra làm người, được làm đệ tử của Phật, được theo học Phật Pháp và thờ Phật, lạy Phật và cúng Phật một cách như pháp.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật! 

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 7 : THỜ PHẬT – LẠY PHẬT – CÚNG PHẬT

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 27.02.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
KHAI GIẢNG LỚP PHẬT HỌC CĂN BẢN DÀNH CHO PHẬT TỬ TẠI GIA (KHÓA 1)
KHAI GIẢNG LỚP PHẬT HỌC CĂN BẢN DÀNH CHO PHẬT TỬ TẠI GIA (KHÓA 1)
KHAI GIẢNG LỚP PHẬT HỌC CĂN BẢN DÀNH CHO PHẬT TỬ TẠI GIA (KHÓA 1)Được Công chiếu trực tiếp 20 giờ...
BÀI 3 – KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG – BUỔI 9
BÀI 3 – KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG – BUỔI 9
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 3: KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG ( BUỔI 9 ) ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 8 : TỤNG KINH TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 8 : TỤNG KINH TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
BÀI 8 TỤNG KINH, TRÌ CHÚ,NIỆM PHẬT Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam Mô A Di Đà ...
Được xem nhiều