LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 10 : BÁT QUAN TRAI GIỚI

BÀI 10- BÁT QUAN TRAI GIỚI

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật!
Hôm nay chúng ta học bài Mười, nói về Bát quan trai giới.

Xin mời các vị phát tâm đọc bài đọc cho đại chúng, bắt đầu từ phần mở đề.

Kinh văn:

A. MỞ ÐỀ 

Ðức Phật Thích-Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là “giới, định, huệ”.

Trong “giới, định, huệ”, thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sinh, huệ có phát sinh mới dứt trừ được vô minh phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tam kiên tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới, Bồ tát giới. Tam quy Ngũ giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới.

Giảng giải chi tiết:

Đối với phật tử chúng ta, đặc biệt là phật tử tại gia có những người đã thụ trì giới bát quan trai, nhưng cũng có thể là chưa. Đối với bát quan trai giới, ngoài năm giới có tăng thêm ba giới nữa. Thời gian thụ trì trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tức là một ngày một đêm. Sở dĩ Đức Phật chế định điều này, chúng ta biết rằng, dù là phật tử tại gia hay Phật tử xuất gia, con đường tu tập của chúng ta bất kể là pháp môn nào, đều phải dựa trên ba yếu tố nền tảng căn bản, đó là giới, định và tuệ. Giới được ví như nền tảng, nền móng của ngôi nhà, giống như xây bức tường của ngôi nhà, còn tuệ giống như chúng ta lợp mái nhà. Nếu nhà chỉ xây tường, lợp mái mà không có móng, thì ngôi nhà ấy khó có thể tồn tại được. Hoặc chúng ta chỉ có móng nhà mà không có tường, không có mái thì ngôi nhà cũng không hoàn thiện. Cho nên, giới, định, tuệ trong Phật pháp được ví như kiềng ba chân, như cái đỉnh- tam túc khuyết nhất bất khả tức là thiếu  một chân thì đổ, thiếu hai chân thì không tồn tại, mà thiếu cả ba nữa thì không còn gì để nói nữa. Giới Bát Quan Trai có nguyên nhân từ đâu, trong kinh luật có nói rằng, nhân có các phật tử tại gia rất hâm mộ đời sống xuất gia thưa với Đức Phật rằng – chúng con vì gia duyên không thể dứt ra được, bây giờ còn gia đình, còn có con cái, còn có sự nghiệp, còn có công việc của quốc gia, nếu bỏ đi tu, trong khi những duyên đó không sắp đặt được sẽ trở thành một gánh nặng cho xã hội và cũng gây chướng ngại cho bản thân cũng như chướng ngại cho nhiều người khác. Bạch Đức Thế Tôn, làm thế nào để cho chúng con có thể thực hiện hạnh nguyện xuất gia ấy được. Đây cũng là tâm nguyện phần lớn của phật tử, chúng ta đều có những vấn đề này. Chúng ta đang có gia đình mà hâm mộ Phật pháp, muốn xuất gia mà chúng ta phải bỏ vợ, bỏ con, hoặc bỏ chồng, bỏ con để đi tu có được không? Người ta cho rằng chúng ta rơi vào tình trạng ích kỷ, mặc dù đi tu phải từ thân cắt ái, nhưng từ thân cắt ái không dễ gì từ được, cũng không dễ gì cắt được. Nếu không gieo nhân duyên xuất gia nhiều đời nhiều kiếp, dẫu có muốn xuất gia cũng không xuất gia được. Đó chính là điều các phật tử tại gia đã thưa với Đức Phật, và Đức Phật đã chế định pháp tu Bát quan trai giới, tức là người tại gia thực hành xuất gia, học hạnh xuất gia trong một ngày, một đêm. Thực ra, giới bát quan trai là giới của người xuất gia, được áp dụng cho người tại gia để tu trì, thể nghiệm đời sống xuất gia một ngày, một đêm. Ngày nay gọi là xuất gia gieo duyên, nhưng không cần phải cạo tóc. Việc này chúng ta có thể tới chùa để thực hành và cũng có những trường hợp có thể ở ngay tại gia vẫn có thể thụ bát quan trai giới. Căn cứ vào trong Kinh Xuất Gia Công Đức, có trường hợp Thái tử tên là Di La. Một hôm Đức Thế Tôn đi qua cổng của gia đình đó thì thấy Thái tử đang say đắm, hoang mê ăn uống chơi bời. Đức Thế Tôn quán chiếu thấy nếu Thái Tử cứ tiếp tục chơi bời như thế thì bảy ngày nữa sẽ chết, và sau khi chết do chơi bời, ăn uống, sa đọa sắc dục như vậy sẽ đọa vào địa ngục. Đức Thế Tôn khi trở về có nói chuyện đó với Tôn giả A Nan, Tôn giả A Nan lại có thân quen với Thái tử Di La này nên có cầu xin Đức Thế Tôn: Bạch Đức Thế Tôn có thể làm thế nào để giúp cho Thái tử đóng được cửa ba đường ác không, tức là không phải đọa tam ác đạo chứ còn cái chết thì chắc chắn xảy ra rồi, Đức Phật không thay đổi được cái chết của Thái tử, nhưng có thể giúp cho Thái tử đóng được cửa của ba đường ác hay không. Đức Phật nói rằng- duy nhất chỉ có cách xuất gia, trì giới thanh tịnh thì có thể lập tức đóng được ba đường ác. Không những như thế còn có thể sinh trở lại cõi trời và cõi người. Ngay sau đó, ngài A Nan với vẻ mặt rất buồn rầu đi đến Thái tử. Trong khi Thái tử chào hỏi thì ngài A Nan buồn rầu không biết mở miệng thế nào để cho người ta tin. Bây giờ người ta đang sống vui vẻ, bảo sau bảy ngày sẽ chết không cẩn thận bị đánh cho. Bây giờ cũng vậy, nói thật chưa chắc họ đã nghe đâu. Ngài A Nan cứ băn khoăn như vậy, Thái tử nói – không biết chúng tôi có làm điều gì sai với Tôn giả mà để Tôn giả không được vui, hỏi cái gì cũng không nói. Ngài A Nan có hỏi Thái tử – vậy Thái tử có tin tôi không? -Tôi làm bạn với ngài từ xưa đến nay, từ lúc còn tại gia mà làm sao mà không tin ngài được. Ngài hỏi- vậy Đức Thế Tôn nói, ông có tin không? – Đức Thế Tôn thì lại càng tin hơn bởi vì Ngài đã từ bỏ ngai vàng tu hành đắc đạo, như thế, cái gì Đức Thế Tôn nói chắc chắn sẽ là thật. Ngài A Nan cũng phải rào trước đón sau như vậy và cuối cùng ngài A Nan có thuật lại lời Đức Thế Tôn rằng- tôi nói ông đừng giật mình, đừng có sợ hãi, đừng có kinh sợ, bảy ngày nữa ông sẽ chết và do cuộc sống mà ông ăn chơi sa đọa này thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Thái tử nghe như thế dựng lông tóc lên, kinh sợ và có hỏi ngài A Nan- vậy thì Tôn giả có hỏi Đức Thế Tôn làm thế nào để có thể thoát được chuyện đó không. Ngài An Nan nói lại, Đức Thế Tôn có nói rằng trong vòng bảy ngày nữa, thì ông phải xuất gia, nếu có thể xuất gia, trì giới thanh tịnh một ngày một đêm thì ông có thể qua được kiếp nạn này, tức là đóng được ba đường ác. Thái tử nói rằng, nếu tôi còn được sống bảy ngày nữa, thì Tôn giả xin với Đức Thế Tôn cho tôi ở nhà sáu ngày nữa (ông này ông vẫn đam mê ăn chơi chưa bỏ được), ngày cuối cùng tôi sẽ xuất gia. Tức là ông không xuất gia bảy ngày, mà xuất gia có một ngày thôi. Ngài A Nan cũng về thưa với đức Phật như vậy, Đức Phật chấp nhận cho ở nhà thêm sáu ngày nữa. Ngày cuối cùng, ông ta cũng xuất gia mà Đức Phật đã cho phép xuất gia một ngày một đêm. Thái tử trong một ngày một đêm đó trì Bát quan trai giới thanh tịnh và kết thúc ngày đó thì quả nhiên qua đời. Sau khi mọi người mà tổ chức tang lễ ma chay xong thì ngài A Nan thưa với Đức Phật- Bạch Đức Thế Tôn, Thái tử Di La đã thụ trì trai giới một ngày một đêm, vậy hiện nay Thái tử sinh về đâu. Đức Phật có khai thị, ngay sau khi lâm chung, Thái tử đã lập tức sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương – cõi trời thấp nhất ở trong Dục giới và làm con của Tứ Thiên Vương là Bắc Phương Thiên Vương. Đức Phật có khai thị- sau đó còn sinh lên tầng trời thứ hai, sinh đến Lục dục thiên, sinh đến Đại phạm thiên, tức là cứ hết các tầng đó thì Thái tử sinh lên, sau khi hết tuổi thọ hai mươi kiếp, hai mươi đại kiếp ở cõi trời thì Thái tử sẽ sinh trở lại cõi người. Những người được gặp Phật pháp và xuất gia chứng quả độc giác, tức là chứng quả Bích Chi Phật. Vắn tắt câu chuyện nói trong kinh cũng chính là nội dung kinh Bát quan trai giới – nói đến công đức dùng cho người tại gia hành trì kết duyên xuất gia trong một ngày một đêm. Nếu giữ giới, đủ tám điều giới thanh tịnh này thì Đức Phật nói đã đủ khả năng sinh lên cõi trời. Cho nên chúng ta thấy rằng, đối với những người tu Tịnh độ, đối với những người tu cầu phúc sám hối, thì Đức Phật đều dạy phải trì Bát quan trai giới. Đặc biệt, chúng ta thấy trong Kinh Dược Sư nói, muốn tụng Kinh Dược Sư, muốn cầu phúc, muốn đảo mệnh mà chúng ta bây giờ gọi là giải hạn thì phải thụ trì Bát quan trai giới không phải là một ngày một đêm mà phải bẩy ngày hoặc ở mức độ nhiều hơn, hoặc kinh nhất niên hoặc phục tam nguyệt – dài hơn là một năm, hoặc là phải kéo dài trong ba tháng, hoặc là bảy ngày trai giới thanh tịnh liên tục mới có thể thụ trì Kinh Dược Sư mới có kết quả. Cho nên ngày nay, chúng ta thấy nhiều người Tụng Kinh Dược Sư không hiệu nghiệm, không linh nghiệm, không có kết quả, là bởi chính nền tảng căn bản Bát quan trai giới – các vị không trì được. Trong kinh đã nói, muốn thụ trì kinh Dược Sư, trước hết phải trì Bát quan trai giới, phải thụ bát quan trai giới, và phải thực hành Bát quan trai giới. Cho nên chúng ta nói – nhân giới sinh định, nhận định phát tuệ. Muốn tu tập thành tựu công đức, đời này kiếp này gieo duyên để đời sau kiếp sau trở lại gặp Phật có thể xuất gia được, phải giữ tám điều giới này. Xin kết luận lại phần này: Tám điều giới hay Bát quan trai giới chính là giới dành cho người tại gia tu tập hạnh xuất gia, trong thời gian một ngày một đêm hoặc tùy tâm có thể thụ thì bảy ngày, hoặc có thể là thụ thì một tháng hoặc có thể thụ thì một năm, tùy theo chí nguyện của chúng ta, lấy đó làm tư lương để chúng ta có thể đóng được cửa tam ác đạo và cũng là tư lương để hồi hướng cầu sinh Tịnh độ, cũng là tư lương quan trọng hơn nữa để có được thân người kiếp sau, có thể Chúng ta vào nội dung chính của bài – phần chính đề. Xin mời các vị đọc.

Kinh văn:

B. CHÁNH ÐỀ 

I. ÐỊNH NGHĨA

Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giờ).

Chữ “Quan” là cửa, cửa ngăn chặn tám điều tội lỗi. Chữ “Trai”, tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy “Bát quan trai giới” là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:

1. Không được sát sinh

2. Không được trộm cướp

3. Không được dâm dục

4. Không được nói dối

5. Không được uống rượu

6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.

7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ

8. Không được ăn quá giờ ngọ.

Giảng giải chi tiết:

Định nghĩa thế nào là Bát quan trai giới? Bát là tám điều; Quan là cửa ải, quan ở đây chính là cửa để vượt qua sinh tử. Giới được ví như cái bè giúp cho chúng sinh vượt qua biển sinh tử luân hồi, giới như là phù lang- tức là phao nổi để giúp cho người đang chết đuối ở trên biển bám vào đó mà có thể bơi đến bờ bên kia. Giới được ví như an lạc để trang nghiêm pháp thân. Cho nên bát ở đây là tám, quan ở đây là giới. Trai chính là quá ngọ bất thực viết trai, thủ trì chư giới biết giới, tức là quá giờ ngọ không được ăn gọi là giữ trai, trai là thanh tịnh. Giữ tám điều giới còn lại gọi là bát quan trai giới. Thực ra tám điều giới này là chín giới trong giới của vị Sa di xuất gia. Nhưng vì người tại gia còn có liên quan đến tài sản tiền bạc cho nên vẫn có thể cầm giữ, còn đối với Sa Di- thập giới thì giới thứ mười là không được giữ tiền, vàng, bạc. Ở đây đã gộp hai giới ngồi nằm trên giường tòa cao rộng lớn với giới xem, nghe múa hát, ca vũ, biểu diễn làm một. Ở đây nếu so với giới của Sa Di chỉ có kém một giới, tức là nội dung tám giới này chính là chín giới của vị Sa di. Sa di – chúng ta biết rằng các vị xuất gia đã thụ mười giới. Ở miền bắc chúng ta cứ gọi là các sư Bác chính là giới xuất gia. Cho nên ở đây chúng ta thực hành hạnh xuất gia, tức là giữ chín giới trong đó tám giới và một giới trai. Ở đây thế nào gọi là trai- trai là quá ngọ bất thực. Quá ngọ là phi thời, phi thời là từ sau giờ ngọ cho đến trước khi minh tướng xuất của ngày hôm sau, tức là trước khi trời sáng. Trong kinh điển giới luật dùng từ minh tướng, minh tướng là ánh sáng của buổi ban mai xuất hiện mà chúng ta giơ bàn tay ra có thể nhìn rõ đường chỉ trong lòng bàn tay, không tính theo giờ. Ví dụ như mùa hè thì năm giờ sáu giờ đã sáng rồi, nhưng mùa đông đôi khi bảy giờ chưa sáng, không thể lấy theo giờ, mà lấy theo mặt trời xuất hiện. Minh tướng tức là tướng của ánh sáng và dù ngày đó ngày nắng hay mưa cũng không quan trọng, mà cứ dở bàn tay buổi sáng ra nhìn thấy rõ lòng bàn tay thì bắt đầu có thể được ăn. Trong kinh Đức Phật nói – buổi sáng là buổi ăn của Chư Thiên, buổi trưa là buổi Chư Phật và chư Tăng ăn. Gọi là ăn ngọ, sau giờ ngọ tức là sau mười hai giờ là giờ của súc sinh ăn, buổi tối là giờ ăn của ma đói, chúng ta gọi là ngã quỹ. Vì thế đệ tử học Phật- một là ăn vào buổi giờ buổi sáng, tức là ăn theo giờ của chư thiên, hai là phải ăn vào giờ ngọ là ăn và giờ của chư Phật. Sau giờ ngọ là giờ của súc sinh và ngã quỷ, vì thế trai giới là không được ăn sau giờ ngọ là để đóng cửa- đóng nhân đoạ vào súc sinh và ngã quỷ. Súc sinh, ngã quỷ là cửa của sinh tử luân hồi, cho nên chữ quan này là vượt qua được cửa ải này, nghĩa là vượt qua được sinh tử luân hồi. Chúng ta ăn vào buổi chiều buổi tối, ăn trong khi đói giống như ma đói ăn, cho nên thuộc về cái nhân của ngã quỹ. Vì vậy đối với Bát quan trai, điều khó nhất đối với Phật tử tại gia chúng ta chính là không ăn sau giờ ngọ. Trong Luật quy định giới bát quan  trai là chỉ giữ gìn trong một ngày một đêm thôi, tức là hai mươi bốn giờ, nếu hôm nay chúng ta thụ từ sáu giờ sáng, thì giới bát quan trai sẽ kết thúc vào sáu giờ sáng ngày mai. Căn cứ vào các ngày trai giới có thể giữ gìn ví dụ một tháng có hai ngày trai là ngày mười năm và ngày ba mươi, hoặc chúng ta giữ một tháng bốn ngày trai, ví dụ như ngày rằm và ngày ba mươi thì thêm ngày nữa vào ngày mùng tám và ngày hai ba. Thêm thành sáu ngày trai, ví dụ như trước ngày mười lăm thì thêm ngày vào ngày mười bốn, trước ngày mùng một thì thêm ngày ba mươi. Ngày đó gọi là dự kỳ sám ma, tùy theo điều kiện của chúng ta. Thời Đức Phật thường khuyến khích các Phật tử tại gia một tháng giữ bốn ngày trai- giữ trai giới trong bốn ngày. Ngày nay thì chúng ta cũng có thể giữ theo các ngày trai đó nhưng những người làm công việc xã hội thì có thể giữ trai giới vào ngày chủ nhật- cũng một tháng bốn ngày vẫn có thể thuận tiện. Giữ gìn Bát quan trai giới gồm có giới không sát sinh, không trộm cắp, trong ngũ giới thì nó chỉ có không tà dâm, nhưng mà Bát quan trai giới là không dâm. Giới của người xuất gia là không dâm, chứ không phải là không tà dâm. Trong những ngày bát quan trai giới như thế này mặc dù là vợ chồng chính đáng cũng không được phép, điều đó là ngăn cấm. Không nói dối, không uống rượu, không trang điểm và không ngồi giường tòa cao rộng lớn, không ăn quá giờ ngọ, đây chính là tám điểm và như thế, so với năm giới- có thêm ba điều thôi, một là không ăn quá giờ ngọ, chính là trai. Trai là không ăn quá giờ ngọ. Không được nằm ngồi giường cao rộng lớn, không được trang điểm và xem ca nhạc biểu diễn, đây chính là thêm ba giới so với ngũ giới chúng ta đã nói trước đây.

Bây giờ chúng ta sang phần hai, làm rõ nội dung của Bát quan trai, xin mời các vị đoc.

Kinh văn:

II. GIẢI RÕ TÁM ÐIỀU NGĂN CẤM NÓI TRÊN

1. Không được sát sinh.

a) Ý nghĩa vì sao không được sát sinh:

Chúng sinh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để cố trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nỗi vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sinh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.

Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất…và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.

Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người đã đành! Chúng ta cũng không nên động đến sinh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ý ấy.

Ðược như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.

2. Không được trộm cướp.

Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa rộng lớn vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp.

Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Ðó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?

Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng… Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.

Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu.

Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta.

3. Không được dâm dục.

Dâm dục là cái nghiệp nhơn sinh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng: “Người muốn đoạn trừ sinh tử, chứng quả Niết-bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được”.

Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.

Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lang chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng.

Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.

Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt dục.

4. Không được nói dối.

Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ giới. Ðó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.

Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.

Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy!

Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.

5. Không được uống rượu.

Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám.

Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: “Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu”.

Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người đang trau dồi trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn.

Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.

Ðấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ “Bát quan trai giới”, chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng uống nữa.

6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát.

Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới Niết-bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết-bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta.

Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục.

Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng… phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.

Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.

Ðược như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng ta.

7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn.

Ðiều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ-Ðạt quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý-Tôn và vua Hy-Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý-Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ-Ðạt quốc sư mống niệm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và khổ đau.

Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp-Tôn-Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao-Phong-Diệu thiền sư lập nguyện: ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích-Ca, trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác…

Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này.

8. Không được ăn quá giờ ngọ.

Trong luật Phật dạy: “Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sinh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ”.

Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:

– Ít mống tâm sai quấy

– Ít buồn ngủ

– Dễ được nhất tâm

– Ít hạ phong

– Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.

Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sinh lòng hổ thẹn.

Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây, trong tám giới này, có năm giới chúng ta đã học ở trong bài ngũ giới rồi, cho nên nội dung, mục đích, ý nghĩa và công đức trì giới thì xin các vị xem lại trong bài về ngũ giới. Ở đây chúng tôi chỉ phân tích kỹ giới thứ sáu, thứ bảy, thứ tám để chúng ta thấy sự khác so với ngũ giới. Trong ngũ giới, như trên đã nói gồm không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, nhưng riêng thụ bát quan trai thì là không được dâm dục, bởi học hạnh xuất gia gọi là tịnh hạnh, là giữ thân trong sạch và ngay cả việc nghĩ tưởng đến những điều đó cũng là phạm giới. Cho nên đối với giới này thì trong bát quan trai nói -thân không được làm việc dâm, miệng không được nói chuyện dâm, và tâm không được nghĩ đến việc dâm dục, thì giới thứ ba mới là tịnh hạnh. Yêu cầu của chúng ta là giữ tất cả các điều giới này trong một ngày một đêm. Năm giới thì tôi nghĩ nó tương đối đơn giản, nhưng từ giới thứ sáu là không được trang điểm, thoa dầu thơm, rồi ca múa biểu diễn và đi xem nghe hát- Thực ra giới này là hai điều giới của Sa di- không được trang điểm và không được ca múa biểu diễn và đi xem nghe. Nhưng đối với Phật tử tại gia thì gộp hai điều này thành một thành cái điều thứ sáu. Tại sao lại cấm trang điểm, trong luật nói- trang điểm bằng bảy báu. Người Ấn Độ đeo tràng hoa, xông hương, ướp hương hoa vào thân thể làm cho thân thể được đẹp, hoặc mặc các đồ gấm lụa trên thân cũng là dạng trang điểm, dùng son phấn nước hoa, tất cả đều thuộc trang điểm. Ở đây chúng ta học cái hạnh của người xuất gia, cho nên đối với người xuất gia thì những vấn đề liên quan đến trang điểm và xem nghe thì sẽ có hai vấn đề. Thứ nhất, trang điểm là làm đẹp thân thể, làm đẹp thân thể dẫn đến cố chấp về thân thể. Trong khi đó, giáo pháp của Đức Phật nói đến thân của chúng ta là thân ngũ uẩn. Thân ngũ uẩn là vô ngã cho nên là không có ngã và ngã sở hữu. Vì chúng ta chấp vào ngã, cái tôi này thì mọi tội lỗi, mọi nghiệp sinh ra đều từ sự chấp ngã này mà ra. Do đó giáo lý của Đức Phật chúng ta thực nghiệm tu tập để đạt đến vô ngã, vì thế trong Kinh Bát Nhã nói- Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Chúng ta tu học muốn giải thoát sinh tử, muốn vượt qua được tất cả mọi khổ đau thì phải thực hành pháp quán chiếu năm uẩn đều là vô ngã, ngũ uẩn giai không chính là năm uẩn vô ngã. Ngược lại, chúng ta cứ chăm sóc bản thân mình, tô vẽ thân mình như Đức Phật nói thân của chúng ta là cái túi da hôi thối, bên ngoài nó là cái lớp da mỏng nhơ nhớp bẩn thỉu, bên trong đều là phân, nước tiểu, máu, đờm,, mủ, dãi và ba mươi sáu thứ bất tịnh. Đức Phật nói – chúng ta trang điểm thì không khác gì cái nhà xí mà đem sơn màu đỏ, nó đã hôi thối làm cho nó càng hôi thối them. Sở dĩ người đời trang điểm là để khỏa lấp đi cái xấu của bản thân-về một ý nghĩa nào đó là đang tự đánh lừa bản thân mình, tự lừa dối mình, và thứ hai nữa là lừa dối những người xung quanh, trang điểm để đánh lừa người khác. Đấy là lý do thứ nhất, ở đó có sự giả dối. Thứ hai, liên quan đến vấn đề tế nhị của hai giới nam và nữ, người ta phải dùng các loại nước hoa, dùng loại hương liệu, ví dụ dầu gội bây giờ hoặc dầu tắm của nam giới có mùi đặc trưng riêng, của nữ giới có mùi đặc trưng riêng. Các mùi đó có thể kích thích để nam nữ tìm đến nhau chính là nguồn gốc tạo nên sự dâm dục. Cho nên chúng ta muốn đoạn dâm thì ở trên là không được dâm – thuộc về chính nhân, và đoạn duyên. Như người ta bảo hoa thơm dụ ong bướm- người ta sử dụng các  mùi hương liệu ở trên thân thể là để dụ dỗ người khác phái. Do đó chúng ta là người tu hành, tu cái cái hạnh xuất gia một ngày một đêm thì không thể khởi cái tâm để mà dụ dỗ ai cả, đấy là lý do thứ hai. Lý do thứ ba là chúng ta đến trước Phật thì chúng ta chỉ là hạt vi trần nhỏ trong biển công đức lớn vô cùng của Đức Phật mà thôi, nói đến đẹp thì không ai đẹp bằng Đức Phật- Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, không cần trang điểm thì đã đẹp trang nghiêm, vậy mà chúng ta lại trang điểm đến trước Đức Phật, mặc quần áo lụa là đến trước Phật là không có ý nghĩa gì. Chúng ta có trang điểm đẹp đến đâu thì Đức Phật nhìn chúng ta chỉ là thấy cái túi da hôi thối thôi, bằng cái tuệ nhãn của Đức Phật thì Đức Phật nhìn chúng ta giống như là nhìn qua kính hiển vi, nhìn qua máy chụp x quang, chỉ thấy toàn bộ cái bản chất xấu xa bên trong. Cho nên người ta bảo dối được người không dối được trời, dối trời không dối được Phật. Câu chuyện Bà Tì Xa Khư là một trong những phật tử tại gia nổi tiếng thời Đức Phật, bản thân bà là hoàng hậu nhưng là đệ tử quy y Tam Bảo của Đức Phật. Câu chuyện được ghi trong kinh điển như thế này. Một hôm bà ấy có việc đi ra ngoài cung, hoàng hậu được ra khỏi cung là việc hiếm, hôm đó đi ra khỏi cung thì hoàng hậu thì phải ăn mặc là lụa là, gấm vóc, trang điểm, đeo vàng đeo ngọc … Đến lúc công việc xong rồi thì bà ấy có đi qua tịnh xá của Đức Phật và thấy Đức Phật đang thuyết pháp có rất đông người đang ngồi nghe. Bà chần chừ muốn vào để nghe Đức Phật thuyết pháp, nhưng với thân phận của một vị hoàng hậu, thân phận của một người đang mặc đầy đồ trang điểm khi bà đã thụ giới và biết rằng như thế là trái với giới luật Đức Phật chỉ dậy, cho nên bà không dám vào. Nhưng không vào thì quá tiếc vì Đức Phật đang thuyết pháp, nếu quay về trong cung để thay quần áo mới quay trở lại thì buổi thuyết pháp đã xong rồi. Đang không biết làm cách nào, đến lúc đi ra thì gặp một người chăn bò, bà quyết định đem đổi bộ y phục của mình cho người chăn bò để lấy cái y phục của dân thường để vào. Còn vàng bạc, châu báu, ngọc quý của nhà vua tặng thì bà lấy khăn tay bà gói, nhìn thấy một gốc cây ở trong chùa, bà đến dúi vào trong đó rồi len lén đi xuống dưới mương rửa mặt cho hết son hết phấn đi, không đeo trang sức, ăn mặc rất bình thường để vào nghe Pháp. Nhưng vào sợ động chúng, bởi vì một người thân phận vợ vua đi đến thì cả đại chúng đang ngồi nghe phải dạt ra mà bà không muốn nên bà lén ngồi đằng sau người khác để nghe. Đấy là một bài học cho chúng ta ngày nay, sau khi nghe Pháp xong hoan hỉ quá bà ấy đi về, và cũng không vào đến nơi để diện kiến Đức Phật vì sợ động niệm mọi người. Bà ấy đi về và cũng quên luôn cả gói trang sức. Một vị hoàng hậu đến nghe Đức Phật thuyết Pháp mà còn phải thay đổi trang phục, bỏ đồ trang sức, rửa mặt để không còn có sự trang điểm nào đó chính là thể hiện ở dưới bàn chân của Đức Phật thì mọi sự trang điểm của chúng ta đều là sự giả dối, mọi cái sự mà chúng ta gọi là mặc tốt mặc đẹp đến trước Đức Phật không có giá trị gì cả. Vì thế tại sao Phật tử chúng ta đến chùa cũng chỉ nâu sòng, ăn mặc rất giản dị để biểu thị cái sự khiêm cung trước Tam Bảo. Trước đó có câu chuyện chúng tôi đã nói rồi, xin nhắc lại – có người có tướng làm đế vương, khi đi vào chùa đi ngông nghênh rồi dựng túi nón, dựng gậy, dựng túi vào trong vách tường của Phật điện, ăn mặc trang hoàng lộng lẫy, sau khi vào lễ Phật xong ra đến ngoài cổng chùa đã mất cái tướng đế vương, mất cái phúc được làm Vua. Chính vì cái điều này cho nên trong giới thứ sáu này, vế thứ nhất là ngăn cấm chúng ta là không được trang điểm, bởi trang điểm nó liên quan đến chấp về thân ngũ uẩn. Thân ngũ uẩn của chúng ta là thân giả dối. Thứ hai nữa là dẫn đến cống cao ngã mạn. Trong điều vi tế, sự trang điểm đó khởi phát dâm dục, chính vì ba lý do này Phật cấm người xuất gia cũng như người tại gia tu Bát quan trai không được trang điểm. Vế thứ hai ở đây là không được ca múa, biểu diễn và không được đi xem nghe, vì chúng ta tu là để tịnh tâm. Ca múa biểu diễn có hai vấn đề mê hoặc. Một là mê hoặc mắt của chúng ta, hai là mê hoặc tai của chúng ta, tức là thanh sắc làm loạn tâm. Xem kịch, xem hát, xem ti vi – xanh đỏ tím vàng ở trên đó mê hoặc, hoặc thấy những hình ảnh, diễn viên đẹp cũng làm cho tâm chúng ta bị mê hoặc. Lời những bài hát, ca khúc tình tứ làm cho người ta say đắm, cho nên xem phim xem ảnh, nghe hát, nghe cải lương nhiều người là não lòng, não ruột, rơi cả nước mắt, làm cho tâm chúng ta động niệm. Tự mình ca hát cũng làm cho mình động niệm, lời bài ca mà buồn rầu thì làm cho tâm chúng ta rầu rĩ, lời bài ca mà khêu gợi vũ lực cũng làm cho người ta là phát điên phát cuồng, lời bài ca mà khêu gợi tà dục làm cho người ta cũng rơi vào cảnh cảnh tượng như vậy. Xem cũng vậy, nghe cũng vậy, tự mình làm cũng vậy, đi xem nghe cũng vậy, đây là các vấn đề làm cho chúng ta phát khởi động niệm. Chúng ta tu là để cho tâm lắng, nước đang đục, mà xem nghe là chúng ta đang khuấy đục tâm của chúng ta. Vậy có người đặt vấn đề – ngày nay trong các lễ hội Phật giáo, những ca khúc Phật giáo, hoặc những màn biểu diễn có được xem nghe không. Xin thưa, nếu ngày đó là ngày thụ Bát quan trai thì không được xem nghe, bất kể đối với trường hợp nào. Còn những ngày bình thường chúng ta có thể nghe những ca khúc Phật giáo cũng được bởi vì nó cũng là một cách truyền tải, nhưng nếu chúng ta quá say đắm vào đó thì cũng bị động tâm. Trong Kinh nói điều đó để cho người tại gia, để cho những người khác ca ngợi ca thán công đức của Phật. Nhiều khi dự những buổi mà pháp hội, các lễ hội Phật giáo có ca sĩ lên hát, dù lời ca tiếng hát về Phật giáo nhưng nhiều khi chúng ta cũng điên đảo dẫn đến tâm bị vọng liệt – không cảm nhận được những cái lời ca tiếng hát ca tụng Phật mà chúng ta lại bị tiếng nhạc kích động. Cho nên, ngay cả chứng quả A La Hán như Ngài Ca Diếp mà nghe chư Thiên gẩy nhạc mà thân thể còn lắc lư, chân còn dập theo theo nhịp, gọi là Ca Diếp tác vũ. A La Hán rồi mà còn bị tiếng nhạc làm khuấy động, Chư Thiên đánh nhạc mà làm cho trời đất dao động, vị A La Hán mà còn phải rung người lên, còn muốn nhảy theo điệu nhạc, chân ngồi gõ nhịp, thì chúng ta biết rằng phàm phu khi nghe nhạc sẽ đến mức nào. Vì lý do này, người đời bảo nghe nhạc để giải phóng tinh thần, để giải trí, còn Phật lại cấm. Giới thứ bảy – không được nằm ngồi trên giường tòa cao rộng lớn, bởi vì giường tòa cao rộng lớn cũng phóng đãng tâm trí, thân ngũ uẩn phóng túng cho nên Phật không cho phép. Đối với người xuất gia, ở một mình thì cái giường Đức Phật quy định- chỉ đủ để nằm cho một người thôi. Đối với Phật tử tại gia giữ giới Bát quan trai, trong những ngày giữ giới Bát quan trai, nếu có giường thì phải nằm ở trên cái giường nhỏ hẹp, không được nằm giường lớn. Giường đó dài một mét tám cho đến hai mét, rộng tám mươi phân, chân cao không quá bốn mươi lăm phân là giường tiêu chuẩn. Ví dụ, chúng ta có gia đình vợ chồng có thể ngủ với nhau, hôm thụ Bát quan trai thì vợ chồng không thể ngủ chung được, không được phép ngủ chung, mà phải ngủ một mình một giường. Nếu chỉ có một giường rộng, mà không có giường khác thì tạm thời chấp nhận nhưng mà không được nằm đệm. Luật quy định để chúng ta trải nghiệm cái cuộc sống xuất gia tu hành của Đức Phật. Bát quan trai là thực hành giới xuất gia, thời Đức Phật là ngủ dưới gốc cây, nằm ở ngoài trời bây giờ chúng ta có chăn có màn, có nhà, có cửa là hơn hẳn nên không đòi hỏi giường cao đệm lớn dễ phóng túng thân tâm. Tốt nhất là phải có một cái  giường nhỏ, không thì nằm vào một chỗ nhỏ. Có những người giữ Bát quan trai thì những ngày đó người ta có thể trải chiếu xuống dưới đất nằm, thử nằm một ngày mà không có có chăn có đệm, không có những điều kiện tốt để chúng ta xem là cái giấc ngủ của chúng ta thế nào. Đức Phật có nói- ngủ bớt một chút để thấy được hạnh phúc của ngủ, khi chúng ta nằm dưới đất, nằm trong điều kiện không có chăn, đệm, chúng ta mới thấu những người còn nằm ở đầu đường xó chợ, những người còn nằm ở dưới gầm cầu, những người nằm ở cái chỗ mà bên ngoài không có giường, chõng với ruồi muỗi. Như thế để chúng ta đặt mình trong hoàn cảnh khó khăn như thế mới thấy mình rất hạnh phúc, và khi mình hạnh phúc như thế mới biết khởi tâm từ, bi thương và chia sẻ với những người khác còn đang thiếu thốn, còn đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Trong Phật Pháp gọi là tam thường bất túc là chỗ này. Ăn bất túc, ngủ bất túc, mặc bất túc, tức là trong ngày giữ Bát quan trai chúng ta phải giữ ba điều- ăn là phải giảm đi, mọi ngày chúng ta ăn ba bữa bây giờ ăn hai bữa thôi, bớt một bữa cũng cảm thấy đói nhưng chúng ta cố gắng để biết ngã quỷ đói thế nào. Khi chúng ta nhịn đói thì mới biết có những người cả ngày không có bữa cơm thì đói khổ thế nào. Đó chính là cái điều thứ nhất. Thứ hai, chúng ta mặc đơn giản. Mọi ngày trang điểm lòe loẹt thì hôm nay mặc thật giản dị giống như người bình thường, cảm nhận cuộc sống của những người bình thường trong xã hội để chia sẻ với họ. Và thứ ba là ngủ, ngủ trong cảnh đơn giản thì biết trân trọng khi hàng ngày không giữ giới, được ăn mặc ngủ mới thấy chúng ta còn rất hạnh phúc. Khi có đủ phương tiện, đủ miếng ăn, có đủ quần áo mặc, có đủ giường chiếu, thì còn có rất nhiều chúng sinh khác, những đồng loại của chúng ta đang màn trời chiếu đất, không biết sống như thế nào, và như thế mới khởi được tâm từ bi, như thế mới biết giảm bớt chi tiêu của mình, giảm bớt ăn mặc phung phí. Có những người tại gia có tới mấy chục bộ quần áo, có những người có hàng trăm bộ còn ít, một cái nhà để mấy dãy tủ không hết quần áo, buổi sáng dở bộ này ra mặc ướm vào rồi mất hàng tiếng đồng hồ mà chưa tìm được cái áo nào ưng ý để mặc. Trong khi đó nhiều người không có áo để mặc thì chúng ta biết là chúng ta đang được hưởng phúc mà đang làm tiêu phí phúc của mình. Vì thế Phật mới dạy chúng ta tu như thế này để- một là tự trải nghiệm bản thân, tự biết yêu quý những tài vật đó và hai là biết chia sẻ với đồng loại. Đây chính là mục đích quan trọng hơn và để chúng ta hạ thấp bản thân mình xuống. Đối với Phật giáo, vật chất càng hạ thấp bao nhiêu thì tinh thần càng tăng thượng bấy nhiêu, vật chất và tinh thần nó tỷ lệ nghịch với nhau, cho nên là cuộc sống vật chất càng tăng thì đạo đức và tinh thần giải thoát càng giảm. Đức Phật chỉ cho phép đệ tử của Phật và đặc biệt đối với người xuất gia, học hạnh xuất gia- ăn, mặc đủ để duy trì mạng sống chứ không phải để hưởng thụ. Ăn để tồn tại, mặc để tồn tại, ngủ để tồn tại, chứ không phải để hưởng thụ. Dành thời gian để tu tập, dành những thứ mà chúng ta để thừa, để phí chia sẻ với người khác và đó chính là tạo dựng công đức cho mình. Giới thứ tám ở đây là không ăn quá ngọ, như đã nói – Phật ăn giờ ngọ, chư Thiên ăn buổi sáng, buổi chiều buổi tối là giờ ăn của súc sinh và ngã quỹ. Do đó trong các chùa, buổi tối cúng cháo để bố thí cho ngã quỷ- ngã quỷ ăn buổi tối, ban ngày không ăn được, không phải giờ ăn của nó, cho nên ban ngày mà cúng cháo do chúng ta đã quen ngày rằm mùng một cúng thí thực, nhưng cúng thí thực đúng nhất là phải cúng vào buổi tối, trời càng tối càng tốt, bởi vì buổi tối dương khí của mặt trời tan đi, cái âm khí xuất hiện thì ma đói, quỷ đói mới ra được, chứ giữa ban ngày dương khí của mặt trời mạnh thì ma quỷ không ra được, không phải giờ được ăn, không phải lúc được ra để ăn. Cho nên, có cúng cũng không ăn được, cúng mà không ăn được thì làm cho nó đói thêm như thế là phi pháp. Buổi trưa cúng ngọ là cúng Phật, buổi chiều buổi tối mới là lúc cúng chúng sinh. Cho nên ở chùa bao giờ cũng phải thỉnh chuông mới cúng cháo, hoàng hôn tức là mặt trời khuất núi, bóng đêm gần xuất hiện bấy giờ mới thỉnh chuông. Thỉnh chuông có bài kệ – phá địa ngục chân ngôn, tức là mong muốn cho cửa địa ngục mở ra chúng sinh được thoát ra, rồi mới bày đồ cúng để cho nó ăn, rồi Tụng Kinh Niệm Phật quy y cho nó, rồi niệm Phật hồi hướng cho nó để nó siêu thoát, đấy chính là lòng từ bi của Phật. Trong những ngày đó thì chúng ta cũng có thể thực hiện hạnh này, kể cả là ăn cơm vào buổi trưa cũng phải xuất sinh, để bố thí cho quỹ từ mẫu quãng giả, thần kiếm sĩ tiểu vương. Buổi tối thì không ăn, nhưng phải phải thí thực cho quỷ thần, ấy là làm lợi ích. Không ăn quá giờ Ngọ có năm lợi ích. Bóng tâm sai quấy là tức là không nghĩ tưởng bậy bạ, không vọng tưởng- không ăn quá giờ ngọ để cho tâm định mà ít sinh vọng tưởng. Thứ hai nữa là ít buồn ngủ, bởi vì là như thế gian nói là căng da bụng thì chùng ra mắt, ăn tối xong thường hay buồn ngủ. Thực ra ăn tối khoa học cũng đã chứng minh và có một cái câu nói – buổi sáng là ăn cho mình, buổi trưa là ăn cho bạn, và buổi tối là ăn cho kẻ thù. Buổi tối chúng ta ăn xong lại đi ngủ và không có hoạt động, cho nên thức ăn thừa lưu giữ ở trong dạ dày không tiêu hóa hết được, do không tiêu hóa được lại không có vận động, không ra mồ hôi, không có bài tiết ra đường đại, tiểu tiện thì các chất độc của thức ăn tích tụ luôn ở trong thân thể, cứ dồn chứa như thế sẽ sinh ra  máu mỡ, sinh ra gan nhiễm mỡ, sinh ra béo phì, sinh ra huyết áp cao, rồi có thể là sinh ra bệnh ung thư- nguyên nhân là ăn tối. Cho nên khoa học người ta cho rằng, ăn buổi sáng là cái bữa ăn chính, nhưng mà bây giờ chúng ta là buổi sáng là nhiều khi là nhịn và ăn thành bữa phụ, nhưng mà dân gian thì phần lớn là ăn buổi tối là bữa chính, cái đó là ngược với khoa học. Ăn sáng và ăn trưa là chính thì hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Đức Phật. Cho nên đây là cũng là kinh nghiệm, nếu không ăn buổi tối thì buổi tối chúng ta có thể tỉnh táo, tu tập nó được nhẹ nhàng, có thể ngồi thiền được. Nếu mà chúng ta ăn tối rồi mới ngồi thiền là không được, bởi vì bụng nó nặng, bị đè tức nên không thể ngồi thiền được. Tụng Kinh niệm Phật lễ lạy đều tức bụng, tức ngực. Ăn xong chỉ muốn đi ngủ thôi, chứ nếu chúng ta không ăn tối, có thể thức đến tận mười hai giờ đêm, một hai giờ sáng để tu được, niệm Phật được. Thứ ba là dễ được nhất tâm. Do chúng ta tu tập vào buổi tối, buổi khuya dễ đạt đến nhất tâm, vào định cũng dễ, mà niệm Phật cũng nhiếp nhất tâm. Thứ tư là ít hạ phong. Hạ phong là các khí bài tiết ra cái đường trên, đường dưới, mồ hôi cơ thể đều nó dẫn đến các khí này- ăn ít sẽ bớt những việc này. Và thứ năm là được thân tâm yên ổn, ít sinh bệnh. Thì chúng ta biết rồi, bệnh tòng khẩu nhập, họa tòng ngôn xuất- ăn buổi tối có nguy cơ bị bệnh rất cao, nhiều khi ăn no cũng không phải là dễ ngủ đâu, trằn trọc không ngủ được đâu, nhất là buổi tối người tại gia còn uống các cái loại chè, cà phê rồi rượu, bia các chất kích thích nó còn có nhiều điều nguy hại nữa, đối với Phật tử chúng ta thấy rõ cái chỗ này, và chính vì tám cái điều giới này là nền tảng căn bản để cho chúng ta gieo tịnh hạnh, tức hạnh thanh tịnh của người xuất gia, và nếu mà giữ hai mươi tư tiếng một cách trọn vẹn cả thân lẫn tâm, như ở trên đã nói – công đức đã đủ cho chúng ta đóng được tam ác đạo, chỉ cần có một ngày một đêm thôi. Nhưng đối với Phật tử giữ trong hai mươi bốn giờ tám giới này một cách trọn vẹn tuyệt đối, tôi nghĩ là không dễ đâu, phải có công phu rất lớn, tu tập nhiều lần mới có thể có được một ngày giữ được một cách trọn vẹn viên mãn. Ở đây không chỉ về mặt hình thức mà quan trọng phải ở trong tâm. Tâm không khởi vọng tưởng về những chuyện ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ nghỉ và phải chuyên tâm tu tập mới có thể đạt được một cách mỹ mãn. Phật tử có duyên được đến chùa, trong hai mươi bốn tiếng chúng ta cộng tu rồi giữ gìn, trong lúc cộng tu thì không sao, nhưng ra bên ngoài chúng ta tiếp xúc nói năng mà không giữ được tâm thanh tịnh, thì tham sân si nó vẫn có thể khởi lên. Những vấn đề có liên quan đến giới này vẫn có thể dẫn đến không được trọn vẹn, mặc dù chúng ta không phá hỏng được giới, nhưng vẫn có thể có khiếm khuyết một phần hoặc khiếm khuyết nhiều phần. Vì thế ở đây, vấn đề giữ giới Bát quan trai thì hết sức lưu ý. Còn về việc hành trì, trong phần sau chúng ta sẽ đọc thêm, nhưng việc thụ Bát quan trai giới thường phải có sự hướng dẫn của Chư Tăng, để truyền giới cho chúng ta. Chúng ta phát nguyện giữ giới một ngày một đêm, vấn đề đặt ra là những người chưa thụ tam quy ngũ giới có thụ Bát quan trai giới được không, xin nói là được, không có ảnh hưởng gì cả. Bởi vì hết một ngày đó chúng ta lại xả ra, còn người mà thụ tam quy ngũ giới là thụ cả đời. Có những người không thể giữ tam quy ngũ giới cả đời được, họ vẫn có thể thụ bát quan trai giới một ngày một đêm, bởi trong bát quan trai giới vẫn có đủ tam quy ngũ giới, nhưng chỉ giữ có hai bốn tiếng đồng hồ thôi, hết hai bốn tiếng đồng hồ họ xả, và hôm sau họ cũng không vướng mắc gì. Cho nên, đối với những người chưa từng thụ tam quy ngũ giới vẫn có thể thụ Bát quan trai giới. Hai nữa là, người đã thụ Tam quy ngũ giới rồi mà chúng ta thụ Bát quan trai giới thì chúng ta cũng chỉ giữ trong một ngày một đêm mà thôi. Còn hết ngày chúng ta xả ra là xả Bát quan trai giới thì Tam quy ngũ giới của chúng ta vẫn còn một cách trọn vẹn, không có ảnh hưởng gì cả. Trường hợp chúng ta tự thụ, thì trong luật nói là trong khoảng hai mươi dặm mà không có Thầy truyền giới hoặc không có những người truyền giới thanh tịnh, thì cho phép chúng ta tự thụ ở nhà và tự giữ ở nhà. Hai mươi dặm tương đương khoảng hai mươi cây số, nếu không có thầy thì được. Hoặc ví dụ bấy giờ đang có dịch bệnh mà không đi được có thể là thụ giới online chẳng hạn, thì trong những điều kiện nào đó có thể tạm chấp nhận được. Tốt nhất, thụ Bát quan trai giới là phải tới chùa, để sống hạnh xuất gia một ngày một đêm, và tạm tách rời khỏi cái gia đình sinh tử của chúng ta. Đến chùa cộng tu một ngày một đêm là tốt nhất, nếu ở các chùa có đủ cơ sở điều kiện để cho chúng ta nghỉ lại qua đêm. Trường hợp như thế nhà dành cho nam phật tử, nữ phật tử phải tách riêng, và trong những chỗ sinh hoạt phải có sự sinh hoạt độc lập, phải tránh sự qua lại tiếp xúc, hoặc trong những các ngày đó có thể nghe Pháp, tụng Kinh, Pháp đàm để thời giờ chúng ta thực hành các điều giới này một cách tốt nhất. Có những trường hợp thì chúng tôi biết, ban ngày các vị tới chùa thụ, buổi tối vẫn về nhà nghỉ, bởi chùa không có điều kiện để nghỉ lại. Thì khi về nhà, chúng ta cũng phải hết sức cẩn thận giữ gìn để làm sao giới pháp được thanh tịnh trọn vẹn. Bởi vì về nhà ngủ có là phòng ngủ, chỗ ngủ, rồi gia đình vợ chồng con cái vân vân, thì những cái điều đó là đã nói cho trên chúng ta phải phải lưu ý. Có như thế mới có thể trọn vẹn được. Sau khi giữ một ngày một đêm, đủ hai mươi tư tiếng có nghi thức làm lễ xả giới. Nhưng trong những trường hợp nhất định chúng ta không có người hướng dẫn để xả giới, thì chúng ta cứ hết hai tư giờ chúng ta phát nguyệt là giữ hai tư giờ, đến giờ thứ 25 là giới tự xả rồi, không làm nghi thức xả thì cũng tự hết, bởi vì chúng ta phát nguyện là chỉ có một ngày một đêm thôi, chuyện đó thì cũng không có gì đáng ngại cả.

Ở đây, trong phần kết luận nói đến lợi ích của Bát quan trai giới thì xin các vị chúng ta đọc và kết thúc bài này. Như chúng ta đã thấy, nói đến lợi ích thì trong các bài giảng chúng tôi cũng đã phân tích và nói rõ rồi. Nêu vấn đề thực tế cho rằng, Phật tử chúng ta nên thụ trì cái Bát quan trai, nhưng không gần Chùa, hoặc ở chùa đó không tổ chức là tu Bát quan trai giới thì chúng ta làm thế nào? Trong khi đó quy định rằng, ngoài hai mươi cái dặm không có Thầy mới được phép thụ Bát quan trai, còn trong vòng hai mươi dặm là phải nương vào các vị Tăng để thụ Bát quan trai. Phần lớn là chúng ta đều ở trong phạm vi gần chùa, không thể xa chùa tới mấy chục cây số, trừ những tỉnh ở biên giới. Nhưng ở đấy nói rằng là phải có người truyền giới và người truyền giới phải thanh tịnh. Nếu chúng ta không có đủ duyên để thực hành thì thiệt thòi cho chúng ta, vậy thì vẫn có thể cho phép là tự thụ giới được không? Nếu chúng ta không tìm được Thầy thanh tịnh như pháp, chúng ta vẫn có thể nương theo nghi thức ở trong sách này để tự thệ nguyện giữ giới một ngày một đêm. Trường hợp như thế, chúng ta phải sắp xếp công việc của gia đình để cho mọi người trong gia đình biết, nếu cần thì phải có người trong gia đình hỗ trợ để chúng ta tu tập một ngày một đêm, nếu mà gia đình có những mà cùng tu thì là tốt nhất bởi vì khi chúng ta tu tập như vậy thì cũng phải dành hết thời gian trong cái ngày hôm đó để dứt ra khỏi các duyên của gia đình. Ví dụ, ngày thứ bảy, chủ nhật nhưng chúng ta muốn tu, nhưng ở nhà con cháu đến chơi, rồi bận việc này việc khác thì làm sao mà giữ hết được. Nếu mọi người không thông cảm, đến gặp lại không được thành ra có chuyện. Giải quyết được các vấn đề đó, và chúng ta phải có một cái không gian riêng để trong suốt ngày đó chúng ta có thể tụng Kinh, có thể niệm Phật, có thể hành Thiền. Thế rồi ăn chay và giữ các giới một cách trọn vẹn. Chúng ta có thể một tháng thực hành bốn ngày theo lời Đức Phật dạy vào các ngày trai, tức là ngày đầu tháng, ngày giữa tháng tức là rằm mùng một. Thêm vào hai ngày nữa là mùng tám và hai ba- như thế thì cũng có thể thành tựu được. Chúng ta cố gắng giữ một cách tối đa, đừng để các điều giới đó bị thủng, bị khuyết, bị phá vỡ bởi vì công đức trì giới cũng rất lớn, nhưng tội hủy phạm giới thì cũng không nhỏ. Trường hợp  trong ngày hôm đó bất khả kháng mà không giữ được, thì phải lập tức là phát nguyện chúng con xin xả giới, chứ đừng để không xả giới mà lại vi phạm vào những điều mà đã phát nguyện lĩnh thụ. Ví dụ như chúng ta đã thụ rồi, đã giữ được nửa ngày rồi nhưngvề nhà do một lý do nào đó dẫn đến phạm một trong tám giới còn lại. Thì lập tức là chúng ta xin là: ngày hôm nay chúng con đã phát nguyện, nhưng đến nay không thể tiếp tục giữ được nữa, chúng con xin xả giới Bát quan trai. Khi xả giới rồi mà có vi phạm vào những điều đó thì tội hủy phạm không nặng. Sau đó chúng ta sám hối vì không đủ công hạnh để giữ giới trọn vẹn thì không có lỗi gì cả. Giữ được nửa ngày vẫn có công đức nửa ngày, không có sao cả, giữ được một tiếng vẫn có công đức của một tiếng. Đây là thực tiễn mà chúng tôi muốn nhắc nhở các Phật tử chúng ta về việc hành trì, và chúng ta vẫn có thể phát nguyện thụ giới một ngày một đêm ở tại gia được, trong điều kiện nếu ở chùa gần đó không tổ chức, không có người cộng tu, hoặc là không có đủ điều kiện để cho chúng ta tu tập một cách cẩn thận, thì Phật tử chúng ta vẫn có thể tự tâm phát nguyện và tự hành trì. Công đức, lợi ích vẫn có thể đạt được cách đầy đủ. Làm được việc này một tháng một lần cũng tốt, hai lần, ba lần, bốn lần hoặc trong các cái kỳ trai giới dài có thể là các khóa tu chẳng hạn, Phật thất hoặc ba ngày bẩy ngày thì tốt nhất là trong những kỳ đó phật tử đến chùa cộng tu, thì tôi đề nghị chúng ta thụ luôn Bát quan trai giới và giữ trong ba ngày, trong bảy ngày. Phải lưu ý vấn đề ăn uống sinh hoạt và cộng tu để làm sao chúng ta vừa có công đức giữ giới, vừa có công đức là tu thất, để hợp hai công thức này lại thì nó có thể tạo thắng phúc cho chúng ta, thành tựu được công thức để Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.

Bài Bát quan trai xin dừng ở đây, phía sau có mấy cái bài phụ, tức là bài đọc thêm về nghi thức thụ Bát quan trai, xả Bát quan trai thì xin các vị chúng ta tìm hiểu và đọc thêm để làm tư lương, nếu chúng ta có muốn hành chỉ bát quan trai ở nhà thì có thể áp dụng theo các phương thức đã chỉ dẫn ở trên, chúc các vị buổi tối được bình an.

A Di Đà Phật!

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 10 : BÁT QUAN TRAI GIỚI

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 03.04.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2568 - DL.2024
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2568 - DL.2024
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2568 - DL.2024 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube ...
BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18
BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊN...
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - ĐỀ TÀI - AN CƯ KIẾT HẠ - BUỔI 26
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - ĐỀ TÀI - AN CƯ KIẾT HẠ - BUỔI 26
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ - ĐỀ TÀI - AN CƯ KIẾT HẠ - BUỔI 26 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook ...
Được xem nhiều