LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA

BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA

Hôm nay chúng ta bước sang Phật học phổ thông chương trình của Khóa thứ hai – Thiên thừa Phật giáo. Đây là bài đầu tiên nói về bổn phận của Phật tử tại gia. Xin mời quý vị phát tâm đọc bài cho đại chúng.

Kinh văn:

A. MỞ ÐỀ 

1. Người đời ai cũng có bổn phận: 

Người ta sanh ra trên hoàn vũ này, ai cũng có bổn phận. Nói một cách tổng quát, thì đã có cái danh, tất phải có cái phận. Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng, mặt trời có cái phận của mặt trăng, mặt trời. Dù nhỏ dù lớn, mọi vật mọi người đều có cái phận riêng của mình. Những điều cần phải làm, đối với cái phận ấy, chính là bổn phận.

Danh càng lớn, thì phận càng nhiều; phận càng nhiều thì bổn phận càng nặng. Hễ có thêm một cái danh là có thêm bổn phận. Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn phận…Người có bổn phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất nhiên ngoài bổn phận người, có thêm bổn phận làm quan, (bổn phận người + bổn phận quan). Và nếu người làm quan ấy lại làm quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu tỉnh) thì tất nhiên ngoài hai bổn phận trên, còn thêm bổn phận cai trị cả tỉnh nữa (bổn phận người + bổn phận quan + bổn phận cai trị cả tỉnh). Nếu muốn có nhiều danh, mà lại muốn trút bớt bổn phận, thì là gian lận, lừa bịp. Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh. Và khi danh đã hư, thì mọi việc đều hư cả. Cho nên người xưa đức Khổng Tử nêu lên thuyết “Chính danh” để chỉnh đốn xã hội là vì thế.

2. Người Phật tử tại gia lại có nhiều bổn phận hơn ai cả: 

Dựa vào lý luận trên mà suy diễn, chúng ta thấy bổn phận của người Phật tử tại gia thật là nặng nề. Cái danh của chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật tử + tại gia. Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn phận của người + bổn phận của Phật tử + bổn phận tại gia. Ðó là chưa kể người Phật tử tại gia ấy còn có những cái danh khác như: Công chức, giáo sư, tỉnh trưởng v.v…Nhưng để cho vấn đề này khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng ta chỉ nói đến bổn phận người Phật tử tại gia mà thôi. Nhưng nếu muốn vấn đề được đặt một cách sáng sủa, giản dị, và sát đề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ bớt chữ người nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến bổn phận của người ở đây; bổn phận ấy mọi người, vì đã là người đều biết cả rồi (trong mọi sách luân lý, công dân đều có nói đến).

Như thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến “bổn phận của Phật tử tại gia” mà thôi.

Giảng giải chi tiết

Bắt đầu vào Khóa thứ hai, Bài đầu tiên chúng ta nói đến bổn phận. Thực ra trong bài đầu tiên nói về Đạo Phật, chúng tôi đã định nghĩa chữ đạo là bổn phận rồi. Đạo chính là nói đến bổn phận và những người theo Đạo Phật thì ắt phải có bổn phận của những người theo Phật. Do vậy, là đệ tử của Phật thì có đệ tử tại gia, có hàng đệ tử xuất gia. Vì vậy, đệ tử tại gia có bổn phận của đệ tử tại gia và đệ tử xuất gia có bổn phận của đệ tử xuất gia. Ngài Ấn Quang có nói, đối với người tại gia thì chữ đạo này hay bổn phận này gọi là “đôn luân tận phận”, tức là phàm mình ở phận nào, ở địa vị nào thì phải làm tròn bổn phận ấy, nghĩa là làm hết trách nhiệm ấy, chúng ta gọi là sống đúng bổn phận, sống tròn bổn phận. Một người có rất nhiều bổn phận khác nhau. Tôi vẫn thường nói chúng ta có nhiều vai diễn khác nhau, với vai diễn nào chúng ta cũng phải làm tròn. Ví dụ khi chúng ta làm con thì chúng ta có bổn phận làm con. Khi có gia đình, chúng ta có bổn phận làm chồng/ làm vợ, khi chúng ta có con thì chúng ta có bổn phận làm cha, bổn phận làm mẹ. Là công dân, đối với xã hội, chúng ta có bổn phận của công dân đối với xã hội, khi chúng ta đảm nhiệm các chức trách ở ngoài xã hội dù bất kể nghề gì chúng ta đảm nhiệm công việc của nghề nghiệp đó. Người ta phân công cho chúng ta thì chúng ta có bổn phận phải làm tốt trách nhiệm đó. Ngày nay chúng ta gọi đó là đạo đức nghề nghiệp, tức là, làm giáo viên thì phải có đạo đức của người làm giáo viên; làm thầy thuốc thì phải có đạo đức của người làm thầy thuốc, đó chính là gọi là bổn phận. Đối với Phật tử có bổn phận gì, và chúng ta phải có trách nhiệm gì đối với tự thân, trách nhiệm gì, đối với gia đình, trách nhiệm gì đối với xã hội và trách nhiệm gì đối với đạo? Đây chính là những điều mà chúng ta cần phải nghiên cứu. Chúng ta cần phải học tập và chúng ta cần phải thực hiện cho tròn và làm sao vai diễn của chúng ta, bất kể ở vai nào thì chúng ta phải diễn một cách xuất sắc nhất. Bất kể bổn phận nào chúng ta phải làm tròn bổn phận ấy, cái đó gọi là đôn luân tận phận, tức là làm hết luân thường, làm hết trách nhiệm và khi chúng ta sống đúng với cái bổn phận, đúng trách nhiệm của mình thì Khổng Tử nói đó là thuyết chính danh. Danh có chính thì ngôn mới thuận, tức là, ở vị trí nào chúng ta phải làm tròn ở vị trí đó và phát biểu nói năng trên cơ sở địa vị của bổn phận mà mình đang thực hiện, như thế danh với thực đi đôi với nhau. Cái thực chính là chúng ta phải thực hiện được hết bổn phận, chức trách của mình.

Chúng ta sang nội dung chính của bài này. Xin mời các vị đọc phần chính đề.

Kinh văn:

B. CHÁNH ÐỀ 

Bổn phận của Phật tử tại gia là những gì? 

Phật là bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp tất cả việc lành gì cũng làm được, nên công đức được đầy đủ và Phật đã biết rõ các phép đều tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân lành, làm việc lành.

Phật tử, muốn được làm con Phật, muốn theo dấu chân Phật, muốn xứng đáng với danh từ Phật tử, tất phải làm tròn bổn phận của Phật tử nghĩa là nghe những lời Phật đã dạy, làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi.

Phật tử, đáng lẽ phải làm y như thế đó. Nhưng bởi vì chúng ta là Phật tử tại gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng như Phật. Hai chữ tại gia ràng buộc chúng ta trong những bổn phận mà chúng ta phải làm tròn.

Do đó, Phật tử tại gia, có những bổn phận như sau:

– Bổn phận đối với tự thân.

– Bổn phận đối với gia đình, quyến thuộc.

– Bổn phận đối với người ngoài gia đình.

Ở đây, chúng ta nói đến bổn phận của Phật tử tại gia, bổn chính chữ Hán của nó là bản, chúng ta đọc âm miền Nam thì người ta đọc bổn, miền Bắc là bản, bản phận, bản là cội gốc, bản là gốc rễ, bản là căn bản, bản là nền tảng. Phận là phận sự, bổn phận. Bản phận là phận sự căn bản, phận sự gốc mà chúng ta phải thực hiện. Giống như chúng ta muốn xây một ngôi nhà thì trước phải xây móng, cây có ra được hoa trái thì phải có gốc, người mà quên mất cái bổn phận của mình, người ta gọi là kẻ vong bạc, tức là kẻ mất gốc. Phật tử tại gia phải có gốc căn bản của mình, đó là gốc của người Phật tử. Vậy gốc của người Phật tử, bổn phận căn bản của người Phật tử tại gia là gì? – Chúng ta phải có trách nhiệm với tự thân. Trách nhiệm tự thân là trách nhiệm gì? Trách nhiệm học Phật tu nhân. Cho nên đối với tự thân của mỗi người Phật tử chúng ta, phải đặt trên năm phương diện. Một là tín, tức là chúng ta phải có niềm tin chân chính, niềm tin xác quyết vào Đức Phật, vào giáo pháp của Đức Phật, vào tăng đoàn của Đức Phật và vào giới luật mà chúng ta đã lĩnh thụ, đó là Tam quy và Ngũ giới. Trước hết phải đặt trên cơ sở niềm tin. Thứ hai là sống tuân thủ giới luật và pháp luật. Cái đó thuộc về giới. Bởi vì đây thuộc về tiêu chuẩn đạo đức. Chúng ta là đệ tử của Đức Phật mà không tuân thủ giới, luật của Phật đã chế định cho người tại gia và cũng không tuân thủ pháp luật quy định đối với một con người, thì chúng ta đã không làm tròn bổn phận của chính mình. Bổn phận chính là quy định những tiêu chuẩn đạo đức, thuộc về đạo đức cá nhân và đạo đức ấy được ấy thể chế hóa bằng pháp luật, hay là bằng giới luật. Đối với Phật thì gọi đó là giới luật. Cho nên trong Phật Pháp, bộ môn giới luật học nó chính là bộ môn đạo đức học. Pháp luật chính là cụ thể hóa những tiêu chuẩn đạo đức mà thôi. Cho nên chúng ta thực hiện cái thứ hai là giới hay này nói khác nó là đức học, tức là tu học, thực hiện đạo đức. Cái bổn phận thứ ba của người phật tử tại gia chúng ta đối với tự thân ấy là tín giới thí, thực hành hạnh làm lành, tránh dữ. Trong việc làm lành, tránh giữ thì đứng đầu là việc là phóng sinh và bố thí. Và cái việc thứ tư là đối với chúng ta là văn, văn ở đây là học Phật pháp. Nghe giảng học giáo lý căn bản, để hiểu những cái điều gì Đức Phật dạy, chúng ta phải bài học, tức là có nhận thức căn bản về Phật Pháp, có nhận thức căn bản về giáo lý của Đức Phật và có nhận thức được căn bản đối với trách nhiệm bổn phận của một người học Phật tại gia phải thực hiện, đó gọi là văn pháp. Trong văn này thì có việc chúng ta nghe giảng, chúng ta học tập các lớp học và Tụng Kinh, Tụng Kinh chính là nghe Pháp, rồi đọc các sách vở Phật giáo, đó là thuộc văn. Trách nhiệm thứ năm là nói đến tu, tức là mỗi phần tử đại gia chúng ta phải chọn cho mình một pháp tu, hoặc là tu thiền hoặc niệm Phật, hoặc trì chú. Tu chính là để sửa. Chúng ta học giáo pháp của Đức Phật rồi, trong bài tụng Kinh lần trước đã nói nếu chỉ có tụng Kinh mà không thật sự tu tập, thì chúng ta chỉ là người như Phật nói – suốt ngày nói đến các món ăn mà chưa từng nếm được cái vị của món ăn. Tu chính là để chúng ta thể nghiệm lời Phật trong cuộc sống hàng ngày, để chúng ta lọc được thân tâm hướng tới hương vị của giải thoát trong Phật Pháp, đấy chính là bổn phận tự thân của Phật tử.  Đối với gia đình và quyến thuộc thì chúng ta phải thực hiện làm thế nào để đem giáo pháp của Đức Phật giáo hóa những người xung quanh và muốn giáo hóa của những người xung quanh thì người đầu tiên chúng ta hướng tới chính là người thân của chúng ta. Đó là vợ, đó là chồng, đó là con cái, đó là cha mẹ, đó là anh em quyến thuộc, phải làm thế nào chúng ta học Phật nhưng chúng ta chuyển hóa tự thân, phải chuyển hóa những thân bằng quyến thuộc của chúng ta và thông qua đó thì chúng ta có cái cách ứng xử đối với những người này đúng Phật pháp. Đó chính là thực hiện bổn phận với gia đình và quyến thuộc. Từ trong gia đình mới đem những vấn đề đó ra bên ngoài xã hội, đó là dùng Phật Pháp ứng xử với người ngoài, tức là ngoài những người thân ra thì các mối quan hệ khác ở ngoài xã hội đều phải được thực hiện bằng tinh thần từ bi và trí tuệ của đức Phật. Chúng ta biết rằng là chữ đạo là bổn phận, chữ Phật thì có hai cái đặc tính căn bản đó là từ bi và trí tuệ. Bổn phận của Phật tử tại gia chúng ta đặt trên nền tảng từ bi và trí tuệ. Bổn phận của người xuất gia cũng vậy, phải đặt trên nền tảng từ bi, trí tuệ. Cho nên, Phật tử là con Phật thì phải học tập theo Đức Phật, phải thực hiện những điều đức Phật đã dạy, phải làm những việc Phật đã làm, phải tu những pháp Phật đã tu. Phật là từ bi, trí tuệ thì chúng ta cũng phải học hạnh từ bí trí tuệ ấy để ứng xử, để giải quyết các công việc và thực hành tròn bổn phận của chính mình. Đây chính là nền tảng của việc này.

Chúng ta đi vào phần thứ nhất – bổn phận đối với tự thân. Xin mời các vị đọc bài.

Kinh văn:

I. BỔN PHẬN ÐỐI VỚI TỰ THÂN 

Tu tâm dưỡng tánh.

Ngoài bổn phận làm người cho xứng với danh nghĩa con người, cho tròn nhân cách, Phật tử còn luôn luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh, hầu hưởng được hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát trong tương lai.

Mỗi Phật tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người, vượt ra ngoài lục đạo. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, vẫn sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyễn, luân hồi đã nhiều đời nhiều kiếp mà chúng sinh cũng hoàn lại chúng sinh. Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước, được làm học trò Phật, mắt được trông vào quyển kinh, tai được nghe Phật pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn, trong bể khổ gặp thuyền tế độ. Nếu chúng ta không gắng sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê lầm phiền não, để cho tâm tánh chúng ta được tiến hóa dần đến chỗ hoàn toàn viên mãn, thì sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước của chúng ta và phụ công ơn đức Thích-Ca, đấng Từ phụ đã hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương pháp tu hành để thoát khỏi sinh tử luân hồi. Phương pháp tu hành mà một Phật tử tại gia cần phải quyết tâm thực hiện là: giữ Ngũ giới, tu Thập thiện, sám trừ các phiền não, chuyên tâm niệm Phật, phát tâm từ bi tế độ. Có như thế thì chúng ta mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải thoát.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nói đến bổn phận của tự thân, trên đã nói, chúng ta có năm khía cạnh đó là tín, giới, thí, văn, tuệ. Thực hành 5 pháp này có khả năng nâng đỡ chúng ta vượt lên kiếp người. Chúng ta đang có được thân của con người và sinh ra ở trong loài người. Theo ngôn ngữ thế gian, người ta thường nói, con người có phần con và có phần người. Phần con ở đây, thiên hạ người ta nói đó là phần thú tính, phần súc sinh, con vật đấy ở trong con người chúng ta. Phật thì gọi đó là ba nghiệp của than, của miệng, của ý, đặt ở trên nền tảng của tham, của sân, của si. Thế thì đối với bổn phận của Phật tử chúng ta tu học Phật pháp để làm thế nào làm cho phần con phải càng ngày càng giảm bớt đi, và làm sao để cho phần người ngày càng tăng lên, chí ít phải được 70 -80 % phần người chứ nếu phần con và phần người ngang bằng với nhau thì chúng ta chỉ là phàm phu bạc địa bình thường, chưa phải là người học Phật. Đó là tiêu chuẩn của người thế gian, còn chúng ta học Phật là để vượt lên trên tiêu chuẩn thế gian. Bởi vì đạo Phật là con đường, mà Phật là giác ngộ giải thoát. Chúng ta đang học Phật là để đi trên con đường giác ngộ giải thoát này, để vượt lên trên phạm trù của con người, vượt lên trên tiêu chuẩn đạo đức bình thường của xã hội. Xã hội ngày xưa lấy tiêu chuẩn đạo đức nhà Nho là nhân, nghĩa, lễ, trí và tín – lấy tiêu chuẩn đạo đức là tam cương ngũ thường thì Đức Phật dạy chúng ta tam quy và ngũ giới. Tam quy và ngũ giới của của Đức Phật vượt trên cả tiêu chuẩn đạo đức mà Nho giáo ngày xưa đã đặt ra. Đặc biệt nó vượt lên trên tiêu chuẩn đạo đức mà thế gian hướng đến. Nói ví dụ như trong giới không sát sinh thì pháp luật ở ngoài đời người ta chỉ cấm giết người thôi. Chứ còn giết vật không cấm. Ngày nay một số nước chỉ nghiêm cấm giết một số động vật quý hiếm, đó là bảo vệ những trường hợp đó còn ngoài ra thì không cấm. Chỉ với một tiêu chuẩn đó chúng ta đã thấy tiêu chuẩn đạo đức của của nhà Phật đã vượt lên tiêu chuẩn đạo đức thế gian. Hoặc chuyện không uống rượu, không nghiện ngập chẳng hạn, mặc dù bây giờ pháp luật có cấm uống rượu ở mức độ nào đó. Thế nhưng chỉ cấm người dưới 18 tuổi thôi, người trên 18 tuổi không cấm. Uống rượu và tiếp đãi rượu với nhau vào những ngày lễ, ngày Tết người ta coi là cái chuyện hết sức bình thường- đấy là đạo đức xã hội. Đi ăn cỗ bàn mà một người nào đó ngồi xuống mâm không uống rượu có thể bị những người bên cạnh chê trách, đàn ông cũng vậy, đàn bà cũng thế. Nhưng tiêu chuẩn đạo đức của Phật học thì cấm hẳn chuyện uống rượu và như thế chúng ta biết rằng cái tiêu chuẩn đạo Phật đã vượt lên trên đạo đức của thế gian. Vượt lên trên đạo đức của thế gian để nhằm mục đích gì, chúng ta biết rồi- chúng ta học Phật hiểu được lý của nhân quả, lý của luân hồi, lý của sinh tử. Trong kinh, đức Phật nói cái khổ của con lạc đà, con lừa- bị chở nặng, đi xa, qua sa mạc nóng bức, đói khát chưa phải là khổ. Cái khổ của chúng sinh ở trong địa ngục bị lửa thiêu đốt suốt ngày đêm cũng chưa phải là khổ. Cái khổ của ngã quỷ, đói khát ngàn năm không được ăn một bữa cũng chưa phải là khổ. Vậy cái gì là khổ, đức Phật nói – cái khổ của con người là không biết học đạo, là mất thân người, là không biết tu tập để vượt qua được sự sống chết, sinh tử luân hồi. Đấy mới là cái khổ thật sự, đó chính là cái khổ vô tri- khổ vô minh. Do vậy, chúng ta học Phật, mục đích tối hậu của chúng ta là vượt qua cõi ngưỡi- vượt qua cõi trời và cuối cùng chúng ta đạt đến mục đích – vượt qua sinh tử luân hồi. Nếu đời này, kiếp này chúng ta được làm thân người không học Phật thì tương lai một khi mất thân người muôn kiếp khó trở lại. Đó là thứ nhất. Đời này kiếp này chúng ta được thân người, may mắn được gặp Phật pháp, tu học Phật pháp mà tu học không đến nơi đến chốn thì vẫn y nguyên trở lại luân hồi. Nếu không giữ giới, không tu học thật sự vẫn chưa chắc đã giữ được thân người, kiếp sau chết đi khi mất thân người muôn kiếp khó trở lại. Cho nên, học để chúng ta nâng đỡ, dùng các thiện pháp mà chúng ta tụ tập để nâng đỡ nghiệp lành của chúng ta, để chúng ta có thể vượt lên trên cõi người- vượt qua cõi trời- vượt qua cả sinh tử trong tam giới là dục giới- sắc giới – vô sắc giới để tiến lên con đường giải thoát giác ngộ, tức là chấm dứt sinh tử luân hồi được giải thoát như chư Phật. Đấy chính là bổn phận của người học Phật nói chung và Phật tử tại gia chúng ta nói riêng.
Do vậy, để làm được điều này chúng ta phải thực hiện năm vấn đề như trên chúng tôi đã nói, đó là phải có lòng tin tuyệt đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, đối với Thánh giới. Thứ hai là phải tu học, giữ gìn giới pháp, tức là thành tựu được tiêu chuẩn đạo đức. Thứ ba là phải bố thí, phóng sinh để gieo các căn lành, tiêu trừ được ác nghiệp. Thứ tư là phải thường xuyên nghe Pháp để hiểu đúng và hiểu một cách chân chính những điều đức Phật dạy, và cuối cùng chúng ta phải chọn cho mình một phương pháp tu tập để tiêu trừ được ác nghiệp, đọan trừ được phiền não, nhờ đó vượt ra khỏi được địa vị phàm phu của kiếp người, tiến lên cõi trời và vượt cao hơn nữa là tương lai chúng ta có thể trở lại làm người, xuất gia tu đạo và đạt đến mục đích cuối cùng là thành Phật như chư Phật không khác. Đấy mới chính là mục tiêu học Phật của chúng ta.

Bổn phận phần thứ hai là bổn phận đối với gia đình và quyến thuộc.

Kinh văn:

II. BỔN PHẬN ÐỐI VỚI GIA ÐÌNH, QUYẾN THUỘC

Phật tử tại gia còn có gia đình quyến thuộc, nên còn nhiều bổn phận không thể làm ngơ được. Phật tử có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ mướn việc… Ðối với mỗi hạng người ấy, Phật tử đều có mỗi cách đối xử, mỗi bổn phận.

Theo kinh Thiện Sanh, thì Phật tử tại gia có những bổn phận như sau đối với những người trong nhà:

1. Bổn phận con đối với cha mẹ, phải đủ năm điều: 

a) Làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăm nom mền chiếu, ấm áp hợp thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc.

b) Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng.

c) Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già.

d) Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sinh thành, dưỡng dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền.

đ) Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem mạch, thuốc thang điều trị không sợ hao tốn.

2. Bổn phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều: 

a) Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh.

b) Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ.

c) Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành.

d) Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.

đ) Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.

3. Bổn phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều: 

a) Phải kính yêu và hòa thuận với chồng, khi chồng ra đi hay trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống.

c) Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình.

d) Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt cãi lẫy, làm mất hòa thuận và có khi phải rã rời giềng mối. Lại khi chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; khi có món ngon vật quí, không nên dùng riêng một mình.

đ) Mỗi đêm, khi chồng ngủ rồi, phải xem xét cửa nẻo, trước sau đóng gài kín đáo, cắt đặt cẩn thận, soi rọi khắp cả trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.

4. Bổn phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều: 

a) Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để vợ khỏi phải làm phiền lòng nấu nướng không chừng, và lo lắng cực nhọc.

c) Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm áo quần và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ buồn phiền.

d) Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà.

đ) Không được sinh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm cho vợ ghen tuông sầu não.

5. Bổn phận đối với bà con thân thích, phải có đủ 5 điều: 

a) Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải thương xót khuyên can, răn nhắc.

b) Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn, tật nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v..

c) Những việc kín đáo, riêng tư của người này, mình có biết cũng không nên tiết lộ cho người khác biết.

d) Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành. Ðôi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng nên hoan hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau.

đ) Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu hụt.

6. Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều: 

a) Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

b) Lúc nào người giúp việc bị bịnh hoạn, phải chăm nom thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.

c) Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ; nếu họ quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.

d) Khi họ tiện tặn tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.

đ) Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.

7. Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều: 

a) Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.

b) Phải biết phần việc nào của mình làm mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đợi chủ sai bảo.

c) Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm vụt chạc, hư hao.

d) Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.

đ) Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây chúng ta nói đến bổn phận ngoài tự thân. Phần chúng ta vừa mới nghe – phần lớn là đều trích trong nội dung của Kinh Thiện Sinh. Kinh Thiện Sinh là Kinh Thi Ca La Việt, hay chúng ta thường gọi là Kinh Lễ Sáu Phương. Nội dung của bản kinh nói về một người ngoại đạo Bà La Môn, nghe lời dặn dò của thân phụ trước khi qua đời- buổi sáng sớm sau khi tắm gội sạch sẽ xong phải hướng về sáu phương để lễ lạy. Đó là phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên và phương Dưới. Nhân đó mà Đức Phật giảng giải ý nghĩa, mục đích của việc lễ sáu phương chính là biểu thị cho sáu mối quan hệ. Đó là quan hệ cha con, quan hệ của vợ chồng, quan hệ của thầy giáo với học sinh, quan hệ với những người thân trong quyến thuộc, quan hệ của chủ và tớ – người chủ, người thuê nhân công và người làm thuê, và thứ sáu là mối quan hệ đối với các vị sa môn Bà La Môn, hay nói cách khác là mối quan hệ giữa các Phật tử và Tăng Ni. Đây chính là sáu mối quan hệ căn bản. Xã hội xưa kia có các mối quan hệ theo cái lối nhân luân như Vua – Tôi, tức là quan hệ giữa người dân và nhà nước, là quan hệ đầu tiên là quan hệ giữa vua và tôi. Quan hệ thứ hai nữa là quan hệ Thầy và Trò, tức là thầy giáo và học trò. Quan hệ thứ ba là quan hệ Phụ – Tử, đó là quan hệ cha – con. Thứ tư là quan hệ vợ – chồng. Thứ năm là quan hệ bằng hữu, tức là bạn bè. Xã hội gọi là ngũ luân, tức là năm mối quan hệ. Trong Phật nói tới sáu mối quan hệ, tức là thêm một mối quan hệ nữa là quan hệ giữa đệ tử của Đức Phật với các vị tu hành. Quan hệ chủ tớ ở trong Kinh nói nó tương đương quan hệ vua – tôi, vua tôi tức là vua và bề tôi đó là quan hệ phạm vi lớn của cả đất nước, còn quan hệ nhỏ là quan hệ của chủ và tớ, thực ra thì các mối quan hệ này nó không có khác gì nhau nhiều. Trong Kinh Thiện Sinh, ngoài 6 mối quan hệ này, Đức Phật còn đề cập đến những vấn đề liên quan như cờ bạc, rượu chè, ca vũ, biểu diễn, tức là những vấn đề làm cho tài sản bị tiêu hao và dẫn đến tán gia bại sản. Đức Phật cũng chỉ dẫn đến các việc làm thế nào để duy trì được tài sản. Làm thế nào để phát triển được tài sản và làm thế nào để có được cuộc sống tốt đẹp thì ngoài 6 mối quan hệ ấy, trong Kinh Thiện sinh có nói đến những vấn đề như đã nói ở trên. Bản Kinh Thiện Sinh này chúng tôi cũng đã giảng một cách đầy đủ, đăng ở trên các bài giảng của chùa Đại Từ Ân, các vị phật tử chúng ta nên nghe lại các phần đó, để chúng ta sẽ hiểu rõ hơn.

Ở đây, nói đến bổn phận đối với gia đình quyến thuộc, trước hết là mối quan hệ đầu tiên- mối quan hệ thuộc nhân luân và hệ trọng nhất đó là quan hệ cha – con, sau đó là quan hệ con cái với cha mẹ. Con cái đối với cha mẹ thì Đức Phật nói có năm điều và ngược lại cha mẹ đối với con cái cũng có năm việc, đó là mối quan hệ hết sức bình đẳng. Con cái có bổn phận với cha mẹ đó là hiếu thuận. Chúng ta là nước có văn hóa phương Đông – tôn trọng hiếu đạo. Cho nên tất cả bổn phận của người làm con trong năm điều đức Phật dậy không ngoài hai chữ Hiếu thuận. Ở đây chữ hiếu – chiết tự chữ Hán trên là chữ Lão, lão người già, dưới là chữ tử là người con, tức là cha con và có một nét gạch chéo nối liền giữa người cha già và người con ở phía dưới, nó là biểu thị người con cõng người cha ở trên lưng- con cõng cha, người cha cầm cái gậy. Ở đây có ý nghĩa gì? Hiếu là sự nối tiếp truyền thống gia đình từ đời trước đến đời sau, tức là truyền thống nối tiếp, Điều đầu tiên mà một người con có hiếu hay không, là có nối tiếp được gia phong hay không, nối tiếp được truyền thống hay không, và nối tiếp được mạng mạch hay không, đấy chính là chữ Hiếu. Và để đạt mục tiêu đó thì chữ Hiếu đặt vấn đề là Thuận, nghĩa là bách hiếu bất như nhất thuận, tức là nói rằng là tôi hiếu với cha mẹ thế này, hiếu với cha mẹ thế kia, nhưng mà chăm điều hiếu thì không bằng một cái điều gọi là thuận theo. Thuận là phải biết vâng lời. Làm con có bổn phận là nhất nhất nghe lời cha mẹ. Cho nên người xưa có câu: Quân xử thần tử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu. Tức là vua bắt bề tôi phải chết mà bề tôi không chết là tội bất trung. Cha mẹ bảo con cái phải chết mà con cái không chết vẫn là bất hiếu. Chữ Hiếu là người ta đặt nặng ở thuận, tức là vâng lời tức là nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Bởi vì cha mẹ nào cũng muốn cho con tốt, cho nên phải dạy bảo những điều hay mà con cái mà không nghe lời dạy bảo của cha mẹ là bất hiếu. Đấy là cái cái vấn đề thứ nhất của trong vấn đề Hiếu, cho nên là con cái phải hiếu kính với cha mẹ. Thứ hai, hiếu rồi, nghe lời rồi thì phải phụng dưỡng. Ngày xưa tiêu chuẩn hiếu là “phụ mẫu tại đường bất khả viễn du” – cha mẹ còn sống thì con cái không được bỏ cha mẹ đi xa, đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau. Nhưng mà ngày nay thì chúng ta thấy rằng xã hội phát triển, con cái phải đi làm ăn xa cho nên nhiều khi cha mẹ ở nhà một mình, cha mẹ bị cô quạnh, cô đơn và không có người chăm sóc, không có người bầu bạn, không được sống chung với con cháu. Hoặc bây giờ xã hội phát triển mặc dù con cháu ở bên cạnh nhưng mà bố mẹ ở riêng, con cái ở riêng để tránh làm phiền cho nhau và nguyên tắc l gia đình truyền thống ba đời, bốn đời, năm đời, tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường gần như là mất. Và vì thế cũng dẫn đến chuyện cha mẹ mặc dù có điều kiện vật chất nhưng vẫn thiếu thốn về tình cảm hoặc cha mẹ sống chung với con cái, nhưng con cái quá bận rộn, các cháu học hành cho nên là cũng ít qua lại hỏi thăm, động viên, nên cũng làm cho bố mẹ buồn. Vì thế hiếu tức là phải làm thế nào để cho cha mẹ được vui vẻ. Trong sự vui vẻ có ba vấn đề, một là biết vâng lời, hai nữa là phụng dưỡng vật chất đầy đủ, ba là làm cho cha mẹ được an vui về mặt tinh thần. Cho nên người xưa nói rằng – Hiếu là sớm thăm, tối hỏi. Phận sự làm con thì sớm đến phải thăm cha mẹ, hỏi han xem là tối ngủ có được ăn giấc không, sức khỏe thế nào, rồi buổi tối có đi làm về rồi cũng phải là thưa hỏi cha mẹ.. gọi là sớm thăm, tối hỏi. Thế rồi trong sớm thăm tối hỏi ấy, ngày xưa còn có cái quan niệm là quạt lồng ấp lạnh và quạt lồng ấm lạnh là cái gì? Mùa nóng thì con cái phải quạt cho cha mẹ được mát, để cho cha mẹ ngủ khi cha mẹ đi ngủ đấy. Ngày xưa là không có điện, không có quạt cho nên phải dùng quạt tay để quạt, gọi là quạt lồng, trời nóng quạt khi cha mẹ nóng. Ấp lạnh là tối trời lạnh nên chăn, đệm lạnh – người con phải vào nằm trước để cho chăn đệm ấm lên, rồi cha mẹ mới vào nằm sau. Nói mùa đông gọi là sớm thăm tối hỏi, quạt lồng ấp lạnh, ở đây tổng quát lại là làm mọi việc hết khả năng của mình, để đền đáp công ơn sinh thành, để làm cho cha mẹ có được cuộc sống vật chất tốt nhất, cuộc sống tinh thần tốt nhất, đó chính là hiếu của thế gian. Nhưng Đức Phật nói rằng là cha mẹ và con cái nếu mà chỉ hiếu như vậy thì đấy là cái hiếu của người thế tục, không phải hiếu của người học Phật. Hiếu của người học Phật ngoài những việc mà phụng dưỡng, nghe lời, chăm lo về mặt vật chất tinh thần thì đức Phật nói nếu cha mẹ có làm ác, chưa biết làm thiện thì con cái còn phải biết khuyên cha mẹ bỏ ác, làm lành, tu nhân, tích thiện, đấy mới là hiếu đạo. Thứ hai nữa, trong Phật pháp đức Phật nói rằng nếu cha mẹ chưa Quy Tam Bảo, thì bổn phận của người con đã Quy y Tam Bảo phải khuyên cha mẹ Quy Y Tam Bảo, ăn chay, giới sát, niệm Phật. Như chư Tổ nói – cha mẹ chưa được vãng sinh Tịnh Độ thì hiếu đạo chưa tròn. Trong Phật Pháp, chữ hiếu còn ở cả vấn đề đó nữa. Bởi vì nếu chúng ta giúp cho cha mẹ có những cuộc sống vật chất đầy đủ đến đâu, rồi vâng lời làm cho cha mẹ vui vẻ đến đâu, mà không giúp cho cha mẹ thay đổi được ác nghiệp và tu tập thiện nghiệp thì dù đầy đủ vật chất, đầy đủ các thứ nhưng khiến cho cha mẹ bị đọa lạc vào trong chốn khổ, vào địa ngục, ngã quỷ súc sinh không có khả năng gì để cứu được cha mẹ ra khỏi địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Trong khi mà cha mẹ, ông bà, tổ tiên chúng ta đang chịu khổ trong địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, thì chúng ta liệu có sống vui vẻ ở trên cõi đời này được không? Và nếu chúng ta cứ nhắm mắt cho qua, sống vui vẻ trên cuộc đời này, trong khi cha mẹ và những người thân của chúng ta bị đọa trong ác đạo là đại bất hiếu. Cho nên, trong Phật Pháp thường nêu tấm gương hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên, Bồ Tát Địa Tạng để nhắc nhở người Phật tử tại gia chúng ta phải làm thế nào để giúp cho cha mẹ biết quay đầu, biết Quy Y Tam Bảo, biết ăn chay, giới sát, phóng sinh, biết niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Thứ hai là bàn một chút về vấn đề vâng lời,. Trong thế gian người ta cho rằng, bất kể bố mẹ bảo cái gì đều phải vâng lời hết, dù đúng dù sai phận làm con cứ biết vâng lời là hiếu đạo. Nhưng Phật không dậy như vậy. Nếu mà chúng ta gọi là hiếu một cách mù quáng, ví dụ như ông vua được gọi là hôn quân mà bảo chết cũng phải chết thì để giữ cái cái trung thì người xưa gọi là ngu trung, tức là trung thành một cách ngu xuẩn. Con cái mà hiếu thuận với cha mẹ, bố mẹ bảo cái gì cũng làm, mà bố mẹ bảo đúng làm đã đành, bảo sai cũng làm thì đó là Hiếu một cách ngu xuẩn. Ví dụ nếu mà bố mẹ là người gian xảo, dạy con cách gian xảo, trong khi đó chúng ta biết đó là gian xảo, mà cũng nhắm mắt để làm mà gọi là thuận lòng cha mẹ, làm để cho cha mẹ vui lòng thì không những chúng ta đẩy cha mẹ chúng ta đọa xuống địa ngục, mà chúng ta cũng đọa xuống địa ngục luôn, Điều đó không gọi là hiếu được.  Cho nên Đức Phật nói là nếu cha mẹ làm sai, thì phận làm con phải biết ngăn cản, phải biết khuyên răn. Nếu mình khuyên răn không được thì phải nhờ những người có uy tín. Người ta khuyên còn khuyên một lần, khuyên hai lần, khuyên ba lần, cho đến khóc lóc kêu mang, xin cha mẹ bỏ những cái điều ác đấy đi, bỏ những cái suy nghĩ xấu, bỏ những cái việc làm không thiện đó đi. Nếu mà chúng ta lại tát nước theo mưa, về hùa với cha mẹ làm những chuyện xấu, chuyện ác, thì không những là chúng ta đẩy cha mẹ chúng ta vào con đường địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, mà chúng ta cũng là rơi vào con đường đó. Cho nên ở đây nói đến chữ Thuận thì trong Phật Pháp- chúng ta phải thuận theo những điều mà Đức Phật dạy. Hiếu Thuận là phải thuận trong khuôn khổ như thế. Chứ không phải là bố mẹ bảo thế nào cũng nghe, bố mẹ xui đi giết người cũng đi giết người, bảo đi ăn trộm cũng đi ăn trộm. Bởi vì chúng ta biết rằng, có những gia đình bố mẹ làm nghề trộm cắp, nhiều khi cũng sai các con làm nghề trộm cắp. Hoặc là bố mẹ buôn gian, bán lậu làm những chuyện phi pháp, thì con cái cũng dễ bị mắc vào chuyện đó, bởi vì hàng ngày tập nhiễm rồi bố mẹ xui khiến. Nhưng mà chúng ta là may mắn, chúng ta được học Phật, chúng ta tỉnh ngộ, biết cái gì là đúng, biết cái gì là sai, biết cái gì nên làm, biết cái gì không nên làm, thì chúng ta phải có bổn phận ngược lại để báo đáp cha mẹ, đó là khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành, chưa quy y thì phải quy y Tam Bảo. Cho nên Đức Phật nói là có mấy hạng người. Thứ nhất, con cái còn hơn cha mẹ. Đức Phật nói là bố mẹ không Quy y Tam bảo mà con cái Quy Tam bảo, bố mẹ không học Phật mà con cái học Phật, đấy chính là con cái hơn cha mẹ. Trường hợp thứ hai là con cái bằng với cha mẹ, tức là cha mẹ Quy Y Tam Bảo, làm lành tu thiện, con cũng Quy Y Tam Bảo, làm lành, tu thiện. Thứ ba là con không bằng với cha mẹ, tức là bố mẹ có Quy y Tam bảo, có học Phật nhưng mà con không Quy y Tam Bảo, không học Phật, đấy là trường hợp là con cái không bằng cha mẹ. Và trường hợp thứ tư là cả con cái và cả cha mẹ đều không Quy Y Tam Bảo, làm việc ác thì Đức Phật nói đấy là cái hạng gọi là bạc địa phàm phu, không cần phải bàn đến. Cho nên chúng ta học Phật – có ba trường hợp- con cái hơn cha mẹ, con cái không bằng với cha mẹ, và con cái ngang nhau với cha mẹ là ở chỗ học Phật này. Thế nên, bổn phận của cha mẹ đối với con cái ở đây cũng có 5 điều là phải dạy dỗ con cái bỏ ác làm lành, để trở lên người có đức hạnh. Đây là tiêu chuẩn chung của cha mẹ nhưng không tránh khỏi có cha mẹ xui con cái làm ác như đã nói ở trên. Phần lớn bố mẹ nào cũng muốn cho con tốt, đều dạy những điều tốt. Thứ hai, phải luôn luôn hướng dẫn con cái để tìm chơi với những người bạn có đạo đức, có trí tuệ, có sự tu học – Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Cho nên, thành tựu cho chúng ta, trong Quy Sơn nói – sinh ra ta là cha mẹ, thành tựu cho ta là thầy bạn. Cho nên phải tìm cho con cái Thầy và bạn tốt. Đến tuổi đi học- phải tìm thày giỏi, chơi với ai, phải tìm cho bạn tốt. Con cái chơi với bạn hư hỏng, bố mẹ phải có trách nhiệm ngăn cản, phải khuyên răn, phải nhắc nhở, phải chỉ cho đường hay lẽ phải để con cái có thể nhận thức mà thay đổi. Khuyến khích con cái trong việc học hành. Tìm những nghề nghiệp thích hợp với khả năng để có thể tạo dựng vật chất căn bản cho cuộc sống ổn định. Cuộc sống vật chất căn bản có ổn định được thì mới có thể yên tâm tu học. Đây là nền tảng. Thế rồi định liệu việc cưới gả, làm sao tìm người cho nó thỏa đáng, có đạo đức và đặc biệt, chúng ta học Phật, phải tìm những gia đình, những người tin tưởng Phật pháp, có cùng chung một tín ngưỡng để tạo nên một gia đình gọi là quyến thuộc Bồ Đề. Đấy là điều tốt nhất. Tôn trọng ý kiến của con cái trong việc bàn bạc công việc gia đình, đừng lấy quyền thế làm cha mẹ rồi con cái nói đúng nói sai đều áp đảo đi là không được. Gia trưởng, tức là cũng nên phải có cái sự bàn bạc và cũng phải lắng nghe, cũng phải thấu hiểu con cái thì mới có thể giúp cho con cái thành được. Đấy chính là những vấn đề liên quan đến quan hệ đầu tiên đó là quan hệ cha con.

Quan hệ thứ hai là quan hệ vợ chồng, ở đây trong đây nói đến bổn phận của người vợ đối với chồng. Chúng ta thấy, nếu đặt vào trong bối cảnh xã hội ngày nay có một số vấn đề chúng ta cần phải điều chỉnh lại. Xưa kia, phần lớn đàn ông phải là người gánh vác công việc gia đình và phải có nghề nghiệp để nuôi sống gia đình và vợ con. Người phụ nữ chỉ có bổn phận là ở nhà trông nom cửa nhà, nấu cơm, quét dọn và nuôi dạy con cái. Bây giờ nhiều phụ nữ truyền thống vẫn giữ cách này, nhưng xã hội phát triển thì phụ nữ cũng đi ra bên ngoài, cũng kiếm tiền, cũng đảm đang việc nước, việc nhà, và nhiều khi còn có sự nghiệp to lớn. Lúc này, vợ chồng đều có bổn phận, có trách nhiệm xây dựng hạnh phúc gia đình, không chỉ có bổn phận như đã nói ở trên, nếu chỉ sống với nhau bằng bổn phận mà không có tình thương đích thực thì không thể có hạnh phúc được. Hạnh phúc của của nhân thế – Đức Phật cũng chỉ dạy: -thứ nhất, phải có tình thương, vợ phải thương yêu chồng, chồng phải thương yêu vợ và hai bên phải đối xử với nhau thương yêu hết mực. Tránh tình trạng không có tâm tà vạy, sớm bận tối đào, hoặc trinh tiết v.v. Những vấn đề đó phải đặt trên nền tảng vợ chồng bình đẳng. Thứ hai là phải thương yêu thật sự. Thương yêu thật sự là phải thấu hiểu. Cho nên tình thương mà chúng ta nói thương yêu thật sự, hay là là bên ngoài nói dùng cái ngôn ngữ gọi là tình yêu đó, thì trong Phật pháp gọi đó là từ bi. Nhưng mà xin chia sẻ với các vị thế này, tình yêu hay tình thương ở thế gian không thể sánh với chữ từ bi của đạo Phật được, bởi vì từ bi của đạo Phật là lòng yêu thương không có điều kiện, và không đòi hỏi sự đáp trả. Còn tình yêu của nhân thế, tình thương yêu của cha mẹ đối với con cái và tất cả các loại tình cảm thế gian đều có điều kiện, đều đòi hỏi sự báo đáp. Ví dụ, chồng thương vợ thì đòi hỏi vợ phải thương trở lại chồng, tức là có điều kiện và có đòi hỏi sự báo đáp. Hoặc giả, vợ có thể thương chồng vì người chồng thỏa mãn được các điều kiện mà người vợ mong muốn, tức là nó có điều kiện. Hôn nhân là hôn nhân có điều kiện, tình thương là tình thương có điều kiện, một khi không thỏa mãn được điều kiện của đối phương, thì tình cảm nó sẽ dẫn đến sứt mẻ. Còn từ bi của đạo Phật là tình thương vô lượng. Cho nên gọi là từ vô lượng, bi vô lượng, tứ vô lượng tâm nó không có hạn lượng. Thế gian có thương nhau thế nào thì khi xảy ra chuyện rồi cũng thành không thương và dẫn đến khổ đau. Từ bi của Phật Pháp thì không bao giờ dẫn đến khổ đau, nhưng tình yêu của thế gian, tình thương của cha mẹ đối với con cái, mọi thứ tình cảm thế gian, mặt trái của nó đều dẫn đến đau khổ vì nó có điều kiện, vì nó đòi hỏi sự đáp trả. Cho nên chúng ta phải đặt tình thương lên nền tảng của từ bi. Thứ hai là phải đặt trên nền tảng của sự hiểu biết, hiểu biết này trong Phật pháp gọi là trí tuệ. Người chồng mà không hiểu được người vợ và người vợ cứ giữ kín mọi việc ở trong lòng, không để cho người chồng hiểu được mình, thì không bao giờ có hạnh phúc cả. Và ngược lại cũng thế, người chồng cũng có một khoảng tâm tư riêng mà không bao giờ chia sẻ với người vợ, người vợ cũng không biết được tâm tư của người chồng thì hai bên không thể thương nhau được. Bởi vì hoàn toàn không hiểu được nhau. Cho nên, tình yêu thế gian phải đặt trên cơ sở tìm hiểu, nhưng mà thử hỏi bao nhiêu người hiểu được nhau. Có những người sống với nhau hết đời chưa chắc đã hiểu được nhau, bởi vì họ không có chia sẻ. Quan hệ vợ chồng ở thế gian muốn yêu thương, muốn hạnh phúc phải có tình thương và phải là tình thương đích thực, không có điều kiện, không đòi hỏi đáp trả. Đã thương người khác thì mình phải làm cho người khác được hạnh phúc, chứ không phải thương người khác để làm cho họ phải đau khổ. Ngày nay xảy ra những tình yêu ích kỷ, khi không được đáp trả cái là họ tìm đến cái chết, hoặc họ tìm cách làm hại người kia. Tôi thương anh mà anh không thương tôi là tôi phải giết anh, gây tai họa cho anh. Đó không phải tình thương, mà đó là lòng ích kỷ và lòng ích kỷ ấy nó dẫn đến khổ đau, dẫn đến hận thù. Cho nên bao nhiêu chuyện khổ, đau rơi nước mắt, chuyện vợ chồng yêu đương v.v dẫn đến tự tử, giết nhau, rồi làm những chuyện thương luân bại lý, đều do cái gọi là tình yêu mù quáng dẫn đến. Tình yêu phải đặt trên cơ sở trí tuệ, tức là tình thương phải có trí tuệ dẫn đường, mà trí tuệ thì phải có tình thương để tưới tẩm. Điều thứ ba trong mối quan hệ vợ chồng là phải đặt trên sự cùng chia sẻ trách nhiệm, vợ chồng phải chia sẻ trách nhiệm với nhau. Trách nhiệm trong việc nhà, trách nhiệm đối xử với cha mẹ hai bên, trách nhiệm về nuôi dạy con cái.. cho nên chồng làm việc này thì vợ làm việc kia, không có một sự phân định rõ ràng và phải hỗ trợ nhau trong công việc, trong cuộc sống, trong sự nghiệp, để cùng phát triển, cùng xây dựng gia đình. Bổn phận của chồng với vợ, vợ với chồng phải đặt trên ba nền tảng nó là tình thương, đó là sự hiểu biết và đó là sự chia sẻ trách nhiệm.

Chúng ta sang nhóm bổn phận thứ ba là bổn phận với quyến thuộc. Ở đây là đối với cha mẹ, đối với anh em, đối với họ hàng, đối với hàng xóm láng giềng. Chúng ta thường có câu lục thân quyến thuộc, tức là họ bên cha, họ bên mẹ, họ bên nội, họ bên ngoại, rồi anh em trên dưới v.v. Lục thân quyến thuộc Đức Phật dạy chúng ta cũng phải đối xử bình đẳng và đặt trên nền tảng thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau và giúp nhau cùng phát triển, cùng tiến bộ, chia sẻ với nhau về vật chất khi có người gặp tai họa, gặp thiếu thốn và cũng tạo điều kiện để cho họ được vươn lên làm giàu chính đáng, nói theo ngôn ngữ ngày nay là như vậy. Và cũng phải biết khuyên nhau bỏ ác, làm lành, tu nhân, tích thiện, phải hỗ trợ nhau trong công việc, trong gia đình, đấy chính là cái tổng quan mối quan hệ trong gia đình, thân bằng quyến thuộc và trong bạn bè. Xưa nay chúng ta vẫn có câu, thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Tu tại gia chính là chúng ta thực hiện trách nhiệm đối với bản thân, đó chính là tu tại gia, và tu tại gia chính là tu hiếu đạo, mối quan hệ vợ chồng, cha con, anh em đấy chính là tu tại gia. Thứ hai là tu chợ, chợ là xã hội thu nhỏ, trong đó thật có, giả có, ngay có, gian có, thiện có, ác có, mọi thứ trong chợ đều có, mọi vấn đề, mọi mặt của cuộc sống đều bày ra chợ. Bởi vì chợ là nơi mà người ta đến để giao dịch và giao lưu các mối quan hệ. Vậy làm thế nào để giải quyết mối quan hệ ở chợ – Tu ở chợ là chúng ta tu cái gì? Tu ở nhà thì chúng ta tu hiếu thuận thì tu chợ là tu cái gì tù? Phật nói chỉ có hai chữ thôi- thành và tí. Thành này là gì? Là thành thật, thành là chân thật. Mọi mối quan hệ gia đình, xã hội, bạn bè, bằng hữu, thầy trò là phải đặt trên chữ thành thật. Chúng ta có đối xử thành thật với người, thì người mới đối xử thành thật với chúng ta. Có chân thành với người khác thì người ta mới tin chúng ta và người khác có tin chúng ta thì chúng ta mới tin tưởng họ. Cho nên đối với xã hội là phải tin nhau và phải thành thật với nhau- đó là thành và tín. Không tin nhau thì không thật với nhau được. Cho nên mọi mối quan hệ ngoài xã hội gọi là thân bằng cũng phải thành tín, tức là phải thành thật với nhau. Thứ ba mới đến tu chùa- tu chùa là gì? Chùa là trường học, cho nên có quan hệ thầy trò. Chúng ta đến trường để học văn hóa, học nghề nghiệp, rồi đến chùa để học đạo, cũng đều là quan hệ là nhà trường cả. Tu chùa là quan hệ thầy trò, mà Phật cũng nói chỉ có hai chữ thôi- Sư Nghiêm Tử Kính. Thầy phải nghiêm, tức là Thầy phải có đạo đức làm Thầy và người học trò thì phải tôn trọng Thầy mới học được đạo. Cho nên người ta gọi – trọng Thầy mới được làm Thầy, tôn sư trọng đạo đấy chính là tu chùa.

Trong bổn phận này, điều thứ bảy, thứ tám nói đến bổn phận của kẻ trên đối với người dưới, kẻ dưới đối với người trên, nói rộng ra trong xã hội, đó là quan hệ chủ tớ, là quan hệ vua tôi, là quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới. Bây giờ chúng ta đi làm, ví dụ như ông chủ với công nhân, người quản lý với người cấp dưới, giữa cán bộ với nhân dân và tất cả các quan hệ này đều là quan hệ trên dưới, gọi là quan hệ chủ tớ. Trong Kinh Thiện Sinh, quan hệ này biểu thị cho hạ phương. Hạ phương tức là người dưới đối với người trên, người trên đối với người dưới- Người trên phải biết quan tâm đến người dưới. Cho nên ở đây nói, trước khi sai khiến việc gì phải biết họ là ấm lạnh thế nào, no đói thế nào, khả năng làm việc thế nào, tùy theo khả năng của họ mà giao phó trách nhiệm. Trách nhiệm đi kèm theo quyền lợi và luôn luôn phải cho họ có quyền lợi thỏa đáng, tức là tùy theo công sức họ bỏ ra đến đâu, người chủ phải trả họ quyền lợi xứng đáng và phù hợp đến đó, luôn luôn khích lệ họ để giúp họ có khả năng tiến bộ. Chính sự tiến bộ của người làm, người giúp việc tạo nên sự thịnh vượng cho gia đình của người chủ. Và ngược lại, người làm thuê, người cấp dưới được người trên quan tâm chiếu cố, giúp đỡ thì phải trung thành và hết lòng phục vụ. Trong sự phát triển sự nghiệp của người trên có sự đóng góp của người dưới và đây là mối quan hệ trên dưới. Thời Đức Phật cho đến thời nay cũng thế, quan hệ giữa Nhà nước với công dân, quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động là thực hiện theo mối quan hệ này. Đấy chính là các cái mối là quan hệ đối với bản thân, đối với gia đình và bây giờ chúng ta sang cái mối quan hệ thứ ba là bổn phận đối với người ngoài gia đình. Xin mời các vị đọc bài ở đây. Bổn phận đối với người ngoài gia đình, thì đây là bổn phận mà trong Kinh Thiện Sinh nói, nó là Nam Phương và thượng phương. Trong Kinh Thiện Sinh nói đến đông phương là mối quan hệ của cha con. Tại sao phương Đông là biểu thị cho mối quan hệ của cha và con. Phương Đông là theo quan niệm của văn hóa phương Đông chúng ta và Phật giáo, phương Đông là phương của mặt trời mọc và nó biểu thị cho ánh sáng và sự sinh sôi. Cho nên quan hệ cha con là quan hệ được sinh ra và là quan hệ gia đình để nối tiếp, đó là quan hệ sinh sôi. Cho nên, con cái phải có cái trách nhiệm xây dựng gia đình để nối tiếp dòng dõi của tổ tiên – biểu thị cho phương Đông. Phương Đông là phương của mặt trời mọc, nó biểu thị cho hành mộc, tức là cây cối được sinh sôi. Phương Nam biểu thị quan hệ thầy trò. Phương nam là phương của hỏa, hỏa là biểu thị trí tuệ. Chúng ta được cha mẹ sinh ra rồi muốn trưởng thành, muốn phát triển, muốn có nghề nghiệp, muốn có hiểu biết thì phải đi học. Mà đã đi học thì phải có thầy. Thầy có trách nhiệm truyền đạt, dạy dỗ đạo đức, nhân phẩm và kiến thức cho học trò. Cho nên người Thầy phải là người tiêu biểu về đạo đức. Vì thế trong các nhà trường, xưa cũng như nay đều có cái dòng chữ rất rõ – Tiên học lễ, hậu học văn. Trước học lễ sau học văn, nhưng phần lớn chúng ta không hiểu chữ lễ. Nghĩ rằng – trước học lễ là học – lễ phép, chào hỏi, nhưng không phải. Chữ lễ người xưa định nghĩa – Lễ giả nhân bản giả – lễ là cái gốc làm người và câu tiên học lễ hậu học văn phải hiểu trước học làm người sau mới học văn hóa. Hệ thống giáo dục của chúng ta có dạy làm người không, có nhưng mà không được coi trọng. Hệ thống giáo dục từ lớp 1 đến là lớp 12 đều có dạy môn Đạo đức, nhưng những cái đó không đủ để cho người ta làm người và cũng không dạy kỹ năng để họ trở thành một con người. Thứ hai, người dạy học cũng chỉ truyền đạt kiến thức, chứ không quan tâm dạy nhân phẩm và đạo đức. Đức Phật đặt cái mối quan hệ này thuộc phương Nam- là phương của trí tuệ, nhưng trí tuệ phải phát triển trên cơ sở nền tảng của người có nhân phẩm và có đạo đức. Một người dù có học giỏi đến đâu, tài năng đến đâu mà không có nhân phẩm, không có đạo đức thì rút cục vẫn không thể dùng được. Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói – Có tài mà không có đức là kẻ vô dụng- tức là không dùng vào đâu được. Còn người có đức mà không có tài, tức là có đạo đức mà không có tài năng thì làm việc cũng khó nhưng không đến nỗi vô dụng. Cho nên mối quan hệ phương Nam là quan hệ giữa thầy giáo và học trò. Ở đây, không riêng đi học chữ, học nghĩa đâu, mà học nghề, học nghiệp, học bất kể một cái gì đều là đi học hết, và bất kể những ai dạy cho chúng ta bất cứ điều gì thì người đó đều là thầy. Thực ra, người thầy vĩ đại nhất trong cuộc đời của mỗi chúng ta ngay từ lúc được sinh ra là cha mẹ. Cha mẹ vừa là Thầy, vừa là cha mẹ. Bởi vì dậy ăn, dậy nói, dậy đứng, dậy đi, dạy tư cách v.v tất thảy đều do cha mẹ dạy hết, sau đó mới đến nhà trường. Cho nên giáo dục gia đình phải đi trước, sau mới đến giáo dục nhà trường. Phương Đông là Đức Phật, phương Nam là phương của Hỏa, là cái mối quan hệ của giáo dục trí tuệ giáo dục của nhà trường. Phương Tây là phương của Kim sinh Thủy, đó là mối quan hệ của vợ chồng. Phải làm sao sắt son như vàng đá, cho nên vàng đá không phai được gọi là phương Tây. Thế còn phương Bắc là phương của Thủy, Đức Phật đặt nó vào mối quan hệ anh em, quyến thuộc, bầu bạn. Quyến thuộc phải đối với nhau như bát nước đầy- nói theo lối thế gian là như vậy.
Quan hệ giữa chủ tớ, trên dưới là mối quan hệ hạ phương, là người dưới với người trên và cuối cùng là bổn phận của đệ tử học đạo- thượng phương. Thượng phương là quan hệ đối với các Tăng Ni, chúng ta trong sách gọi là Sa Môn, Bà La Môn. Trong phần ba này là chủ ý của người biên soạn đưa thành hai mối quan hệ, đó là quan hệ giữa thầy và trò, và mối quan hệ giữa Phật tử và người xuất gia. Ở đây quan hệ giữa thầy trò – học trò thì phải là tôn trọng thầy, vâng lời thầy và phải hết sức nghe, học, hiểu những kiến thức mà thầy truyền đạt. Ngoài đời có ba người được tôn xưng làm thầy, đó là thầy giáo, đó là thầy thuốc, đó là thầy chùa. Thế thầy thuốc chăm lo đời sống sức khỏe cho chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc già bệnh chết- vốn quý của con người chúng ta chính là sức khỏe. Người đời người coi “ngũ phúc thọ vi tiên”. Trong năm cái thứ phúc là Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh thì thọ là đứng đầu, thọ biểu thị cho sức khỏe và do đó cần phải có thầy chăm sóc. Thứ hai, nếu chỉ có sức khỏe về cơ bắp mà không có sức khỏe về trí tuệ thì cũng không sử dụng được và không thể thành tựu được. Cho nên cần phải mở mang trí tuệ. Vì thế người thầy thứ hai giúp cho chúng ta mở mang trí tuệ chính là thầy giáo. Thầy dạy học truyền đạt, dạy bảo cho trí tuệ con người chúng ta. Có sức khỏe, có trí tuệ sẽ có cuộc sống tốt đẹp. Nếu chỉ có sức khỏe và trí tuệ không thôi mà không có đời sống tâm linh, không có đời sống đạo đức, không có đời sống văn hóa thì cuộc sống cũng không trọn vẹn. Cho nên cần phải có một người thầy nữa, đó là người thầy tâm linh, dẫn dắt chúng ta vào đạo, dẫn dắt chúng ta học đạo và dẫn dắt chúng ta đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Vì thế ở đây mới đặt ra mối quan hệ thầy. Không chỉ là mối quan hệ thầy dạy học mà ở ngoài đời là thầy thuốc, thầy dạy đạo- đều phải có bổn phận đối đãi. Mối quan hệ thứ sáu đó là quan hệ đối với Sa môn, Bà La Môn, tức là phật tử đối với Tăng Ni – đều phải ở trên cái mối quan hệ cung kính, tôn trọng. Người học phải hết lòng để học đạo. Người truyền đạo cũng phải hết lòng để truyền đạo. Chúng ta đi học ngoài đời mà thầy không hết lòng dạy dỗ học trò thì làm sao được học trò tôn kính, tôn trọng thầy được. Một người khao khát muốn học, một người thì lại không muốn dạy- mối quan hệ đó không thể tốt đẹp được. Cho nên người học trò đã làm hết bổn phận của người học trò, tức là cung kính tôn trọng, nghe lời và phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn. Ngày xưa, thày giáo đi dạy học không lấy tiền công, cho nên học trò đối với thầy là sống, tết, chết, giỗ – phải có trách nhiệm đóng góp để nuôi dưỡng thầy, phụng dưỡng thầy, cho đến lúc già, lúc bệnh, lúc chết. Bây giờ chúng ta đi học hải trả tiền, mối quan hệ trả tiền là mối quan hệ xã hội hàng hóa trao đổi. Vì thế nhiều khi người học trò học xong không còn nhớ đến Thầy nữa, không còn biết ơn đến Thầy nữa, cho rằng – tôi đã trả tiền và bổn phận của Thầy phải dạy cho tôi học. Đây chính là vấn đề mặt trái của ngày nay về vấn đề giáo dục. Vì thế ở đây, Phật nói phải biết ơn thầy – ngoài xã hội nói là trọng thầy mới được làm thầy, qua sông phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì phải yêu lấy thầy. Giáo dục ngày xưa – gia đình và thầy giáo phối hợp với nhau. Bởi vì người thầy dạy cho người học trò biết hiếu thuận, biết cung kính cha mẹ. Nhưng mà ngược lại người làm cha mẹ thì phải dạy con đi học phải biết tôn trọng thầy, phải biết kính thầy, phải biết báo hiếu thầy. Đấy chính là sự hỗ trợ hai bên. Không có bố mẹ nào dạy con phải hiếu thuận thế này hay thế kia. Không có người thầy bảo học trò phải hiếu với thầy thế này, phải thuận với thầy thế kia, phải phụng dưỡng, phải đền đáp thầy thế nào. Người dạy cho học trò chuyện đó là bổn phận của cha mẹ. Đó chính là cái phối hợp giữa giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình. Ngày nay trong cái mối quan hệ đó có sự thiếu sót. Vì người thầy là không đem hết kiến thức, đem hết khả năng để dạy bảo cho người học trò, cho nên người học trò không thấy công ơn lớn của thầy, không thấy công sức của người thầy đối với sự nghiệp của mình, không thấy được cái ý cao cả của người xưa  nói – nhất tự vi sư bán tự vi sư- một chữ cũng là thầy dạy cho mình, nửa chữ cũng là thầy dạy cho mình, nhờ có ơn thầy dạy bảo. Người ta thường quên mất bổn phận trách nhiệm đối với thầy trò, đối với chư Tăng là cung kính, tôn trọng, nghe lời và tìm cầu các bậc minh sư để học đạo, mong cho mình được tiến bộ giải thoát. Mặt khác, chư Tăng đối với Phật tử thì cũng phải đem lời chân chính của đức Phật để dạy bảo, khuyến dỗ, khuyến khích và giúp đỡ cho họ học đạo được tiến bộ, và đó là mối quan hệ hai bên. Đức Phật đặt trong cái mối quan hệ bình đẳng giữa thầy trò, vợ chồng, cha con, anh em, bè bạn, quyến thuộc.
Hôm nay chúng ta xin tạm dừng bài bổn phận của Phật tử tại gia ở đây. Còn một ít nữa thì phần sau chúng ta sẽ tiếp tục. Tất cả các mối quan hệ này chúng tôi đã giảng kỹ ở trong Kinh Thiện Sinh như chúng tôi đã giới thiệu ở trên. Mong các vị phật tử chúng ta nghe lại toàn bộ bài giảng về Kinh Thiện Sinh- có hơn 10 buổi sẽ thấy được rõ ràng hơn. Chúng tôi xin kết thúc buổi giảng hôm nay ở đây. A Di Đà Phật!

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 03.04.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 4: QUY Y TAM BẢO
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 4: QUY Y TAM BẢO
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 4: QUY Y TAM BẢO ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ...
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 1: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT – ĐUỐC TUỆ TRONG ĐÊM ĐEN, BÈ TỪ NƠI BIỂN NGHIỆP ( BU...
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 1: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT – ĐUỐC TUỆ TRONG ĐÊM ĐEN, BÈ TỪ NƠI BIỂN NGHIỆP ( BU...
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 1: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT – ĐUỐC TUỆ TRONG ĐÊM ĐEN, BÈ TỪ NƠI BIỂN NGHIỆP (...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 2 : VU LAN BỒN
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 2 : VU LAN BỒN
VU LAN BỒN- Phần 1 Bài này nói về chủ đề Vu Lan- Đề cập đến hiếu đạo theo quan điểm Phật ...
Được xem nhiều