VU LAN BỒN- Phần 1
Bài này nói về chủ đề Vu Lan- Đề cập đến hiếu đạo theo quan điểm Phật giáo đối với các nước văn hóa phương Đông. Phương Tây cũng có quan điểm chữ hiếu nhưng không nặng bằng quan điểm chữ hiếu của phương Đông. Phương Đông chữ hiếu có quan điểm của Nho giáo, có quan điểm của dân gian, có quan điểm của Lão giáo và có quan điểm của Phật giáo. Mỗi quan điểm ấy đặt phương thức báo hiếu khác nhau, nhưng coi trọng hiếu đạo. Bởi vì đạo hiếu là đạo của trời đất, trời đất. Cho nên người xưa là sánh công của cha là ngang bằng với trời, ví ơn của mẹ là sánh với đất, coi cha mẹ sánh với trời đất. Vì vậy, trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân và Phật tử chúng ta cũng đã tụng, đã đọc rồi- Đức Phật nói là dẫu ngài có giảng về công lao sinh thành của cha mẹ, trải qua trăm kiếp nghìn đời cũng không bao giờ nói hết được. Bởi vì cha mẹ là người sinh ra chúng ta, nếu không có cha mẹ, chúng ta sẽ không có mặt trên cuộc đời này. Không ai từ kẽ đất mà chui lên được, cho nên, dẫu cha mẹ có như thế nào đi chăng nữa, không phải là người tốt hoặc là sinh ra đã vứt bỏ ra ngoài đường thì vẫn là cha mẹ sinh ta. Nếu không có họ, chúng ta không bao giờ có mặt ở trên cuộc đời và như thế báo ơn còn chưa hết, làm gì có chuyện là oán hận. Chính vì những người không hiểu được cái nghĩa đó, không hiểu được ý tứ đó, mới dẫn đến oán hận. Chúng ta biết rằng là trong kinh Phật có ba bộ kinh được gọi là hiếu kinh của đạo Phật. Và ba bộ kinh này giảng giải về ba mức độ báo hiếu khác nhau. Bản kinh thứ nhất là bản Kinh mà chúng ta đang đề cập là kinh Vu Lan hoặc là báo hiếu theo kinh Vu Lan. Kinh Vu Lan là kể đến việc báo hiếu của một vị tôn giả tên là Đại Mục Kiền Liên và ngài đã tu hành chứng quả Thanh văn, tức là A La Hán. Đấy là báo hiếu theo cấp độ Thanh Văn. Bản kính thứ hai là mà chúng ta vẫn thường đọc tụng, các phật tử chúng ta đều tụng, đó là Kinh Địa tạng cũng đề cập đến chữ Hiếu, nhưng mà nó cao hơn chữ hiếu của của Thanh Văn. Không chỉ báo hiếu cha mẹ một đời (kinh Vu Lan báo hiếu cha mẹ có một đời) nhưng Kinh Địa tạng là báo hiếu cha mẹ muôn đời và cái đó mới là tinh thần của Bồ Tát Đạo. Cho nên chúng sinh độ hết mới chứng bồ đề, địa ngục vị không thể bất thành Phật, đấy là hiếu của Bồ Tát. Cao hơn cấp độ của Bồ Tát, là báo hiếu của chư Phật thì chúng ta có bộ kinh bảy quyền, đó là Đại phương tiện Phật Báo Ân Kinh. Đây mới là phương pháp báo ơn của chư Phật. Chư thật thì báo ơn còn siêu việt hơn các hàng Bồ Tát, có thể là hy sinh tính mạng của mình, cắt thịt để nuôi cha mẹ, đập xương lấy tủy để chữa bệnh cho cha mẹ, làm mọi thứ vì cha mẹ, cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng tuyên bố thế này- Ta có thể bố thí tất cả đầu, mắt, chân, tay, tủy, não của mình cho đến bố thí cả quốc thành, tức là bố thí cả đất nước, bố thí cả vợ con nhưng có một thứ mà không bao giờ bố thí đó là cha và mẹ. Tức là cha mẹ hơn cả quốc thành, hơn cả vợ con, hơn tất cả và trên hết hơn tất cả bản thân. Như vậy để thực hiện Phật đạo hạ giáo hóa chúng sinh. Để mong muốn thành Phật bởi vì trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật đã nói thế này, tất cả những người đàn ông, người đàn bà trên thế gian này đều đã từng là cha mẹ của ta. Đức Phật nói như vậy, vì thế ta biết ơn họ và ta tìm cách trả ơn họ bằng cách tu hành thành vô thượng chính đẳng chính giác để độ thoát cho họ ra khỏi sinh tử luân hồi. Đấy là cách báo hiếu của chư Phật, và đức Phật cũng nói rằng – ta cũng có ơn với chúng sinh, bởi vì từ trong vô lượng kiếp ta cũng đã từng làm cha, làm mẹ của tất cả chúng sinh. Ở đây có hai vấn đề, tất cả chúng sinh ở trên thế gian đều đã từng là cha mẹ, vợ con thân thích của ta và ta cũng đã từng làm cha mẹ, vợ con thân thích của chúng sinh. Vì thế ta phát tâm vô thượng chính đẳng chính giác thành Phật để độ hết cho họ được vào cảnh giới an vui niết bàn- đấy mới là hiếu của chư Phật. Cho nên chúng ta có ba cái bộ kinh, đó là Hiếu Kinh. Một là Kinh Vu Lan là cách báo hiếu của hàng Thanh Văn, chỉ báo hiếu cha mẹ một đời. Kinh Địa Tang là cách báo hiếu của Bồ Tát, báo Hiếu cha mẹ nhiều đời. Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân là cách báo hiếu của chư Phật, là báo hiếu với tất cả chúng sinh muôn loài, vì tất cả chúng sinh muôn loài từng là cha mẹ quyến thuộc của chư Phật, cho nên Đức Phật Thích Ca có danh hiệu là Đại hiếu Thích Ca Văn, chính là như vậy.
Bây giờ chúng ta đi vào cái nội dung chính ở đây nói đến phương pháp, cách thức báo hiếu theo tinh thần của kinh Vu Lan. Xin mời các vị đọc bài.
Kinh văn:
A. MỞ ÐỀ
1. Công ơn sinh thành dưỡng dục rất lớn lao
Chúng ta thương nghe câu ca dao:
“Công cha như núi Thái sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
(Công ơn cha mẹ thật quá lớn lao như núi cao, bể cả). Mẹ thì chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ đại, tiểu tiện ở trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca dao có câu:
“Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”.
Còn cha mẹ phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, ở mướn, mua tảo bán tần, đổ mồ hôi lấy bát cơm, manh áo cho con. Ngoài ra, cha còn dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua chúng kém bạn.
Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng.
2. Vậy làm con phải báo đền ơn cha mẹ:
Bất luận luân lý đạo đức nào, Ðông hay Tây, xưa hay nay; đều lấy chữ “Hiếu” làm đầu. Một người con đã bất hiếu với cha mẹ, thì không còn việc xấu xa gì mà không làm được. Một kẻ vong ơn bội nghĩa như thế, thì không còn biết nhân nghĩa, bác ái, công bằng là gì nữa. Bởi vậy cho nên, người xưa có câu:
“Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên“,
(Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, đều lấy Hiếu làm đầu).
Kinh Thi có nói một câu rất cảm động:
“Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã,
Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao,
Dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực“.
Nghĩa là cha sinh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sinh ta cực nhọc. Muốn đền đáp ân đức của cha mẹ, như vói lên trời cao chẳng cùng.
Phật cũng dạy:
“Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế“.
Nghĩa là cha mẹ còn sinh tiền, cũng như Phật còn ở đời. Xem thế, Phật đã đề cao biết bao sự hiện diện quí trọng của cha mẹ. Vì cha mẹ quí trọng như thế, nên Ngài dạy thêm:
“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên“.
(Hiếu thảo đứng đầu trong mọi việc).
Ðể Phật tử làm tròn nhiệm vụ hiếu đạo, nên đức Phật dạy pháp Vu Lan Bồn dưới đây.
B. CHÁNH ÐỀ
Vu Lan Bồn là một phương pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy hiểu nghĩa Vu Lan Bồn thế nào đã.
I. ÐỊNH NGHĨA
Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Người Trung Hoa dịch là: “Giải đảo huyền”, nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược.
II. NGUYÊN NHÂN PHẬT DẠY PHÁP VU LAN BỒN
Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng được 6 phép thần thông, ngậm ngùi nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài tìm cách báo đáp. Dùng đạo nhãn xem trong thế gian, Ngài nhận thấy mẹ mình sinh làm loài ngạ quỷ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn dâng mẹ. Ngài vận thần thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ khát khao, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giựt, lấy tay trái che giấu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miệng, thì hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được.
Ngài Mục Kiền Liên thấy thế, hết sức đau buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu.
III. PHẬT DẠY PHÁP VU LAN BỒN CHO NGÀI MỤC KIỀN LIÊN
Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng:
“Nầy Mục Kiền Liên! Mẹ của ông do lòng tham lam, độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sinh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta nay sẽ vì ông, chỉ dạy phương pháp cứu rỗi, khiến cho cha mẹ ông xa lìa được các điều tội lỗi.
Nầy Mục Kiền Liên! Ngày rằm tháng 7 là ngày Tự Tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư kiết hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan hỷ của các chư Phật, vì thấy chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên mãn. Vậy ông nên nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
Ông hãy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị Đại đức Tăng trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong núi rừng, chứng được bốn quả Thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thần thông tự tại như hàng Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Thánh Tăng, hoặc các vị thập địa Bồ Tát thị hiện làm thầy Tỳ kheo v.v… Ông phải thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì dời đi đâu cũng được”.
Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành.
Giảng giải chi tiết:
Nói đến Pháp Vu Lan Bồn, thực ra chữ Vu Lan Bồn là từ ghép của cả tiếng Hán và tiếng Phạn, chữ Vu Lan là Phạn âm phiên âm sang tiếng Hán Việt. Chữ Bồn là cái chậu, là tiếng của Trung Quốc, cho nên là chữ Vu Lan Bồn là là ghép cả tiếng Hán và tiếng Phạn vào với nhau. Chữ Vu Lan là dịch sang chữ Hán, đọc theo cái âm Việt của chúng ta là “giải đảo huyền”- giải là cởi trói, đảo là ngược, huyền là treo, tức là cởi trói cho những người đang bị treo ngược hay là giải phóng cho những người đang bị treo ngược. Tất cả những người phải đọa địa ngục thì đều gọi là người bị treo ngược, tại sao gọi là bị treo ngược, vì họ chúc đầu xuống bị đọa lạc. Còn người sinh lên cõi trời là thẳng đầu lên mà bay lên. Cho nên người bị đọa lạc thì giống như là trong Kinh Đức Phật, nói là cái mũi tên khi bắn hết tầm thì nó sẽ trúc đầu, nó cắm xuống. Người mà bị đọa xuống địa ngục giống như người bị cắm đầu xuống và bị treo ngược hay chân lên. Vì tội của họ tạo nên làm đảo lộn nhân luân, đảo lộn đạo đức, đảo lộn tín niệm, cho nên bị đâm đầu xuống. Nghĩa của địa ngục có một nghĩa là treo ngược. Không phải địa ngục treo ngược mà đức Phật dùng hình ảnh giống như người bị cắm đầu xuống và bị treo ngược. Còn chữ bồn, kinh Vu Lan có nói nó là cái bình bát, đồ cúng dàng được đựng trong cái cái bồn này, tức là đựng trong những cái chậu này. Tứ sự cúng dàng để vào trong cái chậu để dâng lên chư Tăng, cái chậu ấy gọi là cái bồn cúng dàng. Cho nên pháp Vu Lan – các vật dụng để vào bồn cúng dàng là đem tứ sự cúng dàng để vào cái chậu – theo nghĩa như vậy để giải cứu tội của người bị treo ngược đấy, chữ Vu Lan bồn là nghĩa là như vậy. Kinh Vu Lan chỉ có trong hệ thống kinh điển của Phật giáo Bắc truyền, hệ thống kinh điển của Phật giáo Nam truyền không có bản kinh này. Đây là điểm mà chúng ta ghi nhận Phật giáo Nam truyền trong Tiểu Bộ Kinh Ngã Quỷ Sự cũng có một bản kinh tương tự như kinh Vu Lan nhưng nhân vật ở trong đó là Ngài Xá Lợi Phất. Người bị đọa lạc là mẹ của ngài Xá Lợi Phất, nhưng không phải mẹ ở kiếp này mà mẹ ở kiếp trước bị đọa làm ngã quỷ, bị đọa làm ma đói và đã nhờ ngài cứu giúp. Ngài Xá Lợi Phất đã có sự trợ giúp của Ngài Mục Kiền Liên và sự trợ giúp của nhà Vua đã tổ chức một pháp hội cúng dàng đến Đức Phật và chư Tăng, sau đó dùng công đức hồi hướng đó cho ngã quỷ mà là mẹ kiếp trước của Ngài, kết thúc buổi cúng dàng đó thì thân mẫu của ngài Xá Lợi Phất ở kiếp trước đó đã được sinh lên cõi trời. Trong bản kinh ấy không đề cập đến cúng dàng vào ngày tự tứ, đây là một điểm khác, còn bản kinh Vu Lan của Phật giáo Bắc Truyền thì nhân vật được nói đến là Ngài Mục Kiền Liên và nói đến thời điểm cúng dàng là vào ngày tự tứ. Đây là hai điểm mà chúng ta phải ghi nhận cho rõ. Nhiều người nói rằng, trong Nam truyền không có chuyện đó, xin thưa, trong Nam truyền có bộ kinh ấy, ở trong Ngã Quỷ Sự nói về câu chuyện của Ngài Xá Lợi Phất chứ không phải là Ngài Mục Kiền liên. Đây là hai điểm khác nhau, nhưng nội dung thì hoàn toàn là tương đồng chỉ có khác về thời điểm là cúng dàng. Vậy tại sao thời điểm cúng dàng khác nhau như vậy và tại sao Bắc truyền lại là ngài Mục Kiền Liên không phải là Ngài Xá Lợi Phất, tại sao Bắc truyền lại có có bản kinh này? Ở đây tôi xin đưa ra mấy lý do để kiến giải. Thứ nhất, khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc và Việt Nam – đất nước thuộc văn hóa hiếu đạo theo Nho giáo và bản thân Nho giáo cho rằng nếu một người nào mà bỏ đi tu khi cha mẹ đang còn sống là phạm tội bất hiếu. Vì vậy, từ thế kỷ thứ nhất, thứ hai, thứ ba, khi Phật giáo trong khoảng độ 200 – 300 năm truyền đến Trung Quốc và Việt Nam chúng ta, lúc bấy giờ hầu như không có người bản địa đi xuất gia, vì nó liên hệ đến vấn đề chữ hiếu. Theo quan điểm của Nho giáo, Hiếu có ba thứ: một là phải sớm tối hầu hạ cung phụng cha mẹ một cách đầy đủ; thứ hai là có danh thơm tiếng tốt để cho cha mẹ được vui lòng và thứ ba là phải sinh con nối dõi tông đường để duy trì dòng dõi của cha mẹ và thờ cúng ông bà, tổ tiên. Một người đi xuất gia sẽ phạm vào cả ba điều này – một là không ở nhà để sớm dâng cơm tối rót nước hầu hạ, phụng dưỡng cha mẹ; thứ hai là không có ở nhà để phát triển sự nghiệp như ở thế gian, tức là đi thi làm quan, dương thanh danh, hiển phụ mẫu, thị chi yếu giả, hoặc có công ăn việc làm để cho cha mẹ được vui lòng, đấy là điều bất hiếu thứ hai; Điều bất hiếu thứ ba là đi xuất gia không có gia đình và không có sinh con và vì thế là không có người nối dõi là do không có người nối dõi thì sẽ không có người thờ phục ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Và như vậy là người xuất ra sẽ phạm vào cả ba vấn đề liên quan đến hiếu đạo. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì người Trung Quốc và người Việt Nam lúc bấy giờ không ai đi xuất gia được. Bấy giờ, chỉ có chư tăng ở Ấn Độ đến truyền đạo mà thôi, đến truyền đạo rồi họ quay trở về nước, hoặc họ qua đời mà không có người kế tiếp thì Phật pháp sẽ hoại diệt, không có người truyền bá, đấy là một vấn đề. Do đó Chư Tổ đã căn cứ vào tình hình cụ thể, y cứ vào kinh Phật đã kết tập bộ kinh Vu Lan này để giải quyết vấn đề hiếu đạo và thông qua cái bản kinh ấy để chỉ ra rằng, Ngài Mục Kiền Liên tu chứng được thần thông đệ nhất, vì có thần thông cho nên mới có thể nhìn thấy được cảnh địa ngục, cảnh thiên đường và cũng biết được thân mẫu của mình đọa vào đâu. Vì vậy mới lấy hình ảnh của Ngài Mục Liên để mà nói rõ việc này. Vấn đề thứ hai chỉ ra rằng, người xuất gia không phải là người bất hiếu, mà là đại hiếu. Vì cái hiếu của người thế gian chỉ giải quyết được cuộc sống hiện tại trong một đời, nhưng không giải quyết được vấn đề sau khi đã chết, và những kiếp tương lai. Nếu chỉ trọn đời phục vụ cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ một cách đầy đủ mà cha mẹ làm ác phải đọa vào địa ngục như bà Thanh Đề, thì một người con có hiếu ở tại gia liệu có cách gì để giúp cho cha mẹ ra khỏi cái sự đọa lạc trong địa ngục ngã của súc sinh- Chỉ có những người xuất gia chân chính như tấm gương của Ngài Mục Kiền Liên mới có thể làm được việc đó. Đây chính là ý của Kinh Vu Lan muốn nhằm tới – người xuất gia không phải bất hiếu mà là đại hiếu. Cho nên trong bộ Quan Âm Nam Hải Sự Tích Diễn Ca có câu: Giữ chi hiếu nhỏ tâm thường, giữ đường hiếu lớn rõ ràng xuất gia, tức là đừng khư khư giữ hiếu nhỏ để hàng ngày quanh quẩn hầu hạ cha mẹ mà không thể giúp cho cha mẹ giải thoát giác ngộ, thì thà rằng mang cái tiếng bất hiếu, nhưng là thực hiện được đại hiếu thật sự, đấy chính là ý tứ của vấn đề báo hiếu theo kinh Vu Lan. Còn nguyên nhân dạy Phật, dạy Pháp Vu Lan thì ở trong này đã nói rõ -ngài Mục Liên có người thân mẫu là Thanh Đề, thân phụ là ông phó tướng. Sau khi cha qua đời có để lại một cái số tài sản rất lớn. Sau khi thủ hiếu ba năm, lúc bấy giờ Ngài chưa xuất gia và có tên là La Bốc, đem số tài sản đó chia làm ba phần thực hiện di chúc của cha, một phần là để phụng dưỡng mẹ, một phần là để cúng dàng trai tăng để cầu phúc cho cha và một phần là của La Bốc lấy cái tiền đó để đi làm ăn buôn bán, để phát triển sự nghiệp. Bà mẹ giục con đi làm ăn và nói rằng việc mà cúng dàng Trai tăng thì cứ ở nhà để đó, ở nhà mẹ sẽ thay con thực hiện để hồi hướng công đức cho cha con và La Bốc đã tin lời mẹ và đã để lại cái số tiền một phần ba đó. Ngoài số tiền một phần ba của mẹ thì một phần ba nữa của cha do bà mẹ cầm. Khi con trai đi làm ăn, buôn bán rồi thì bà mới nói với người nhà là tiền của ta vất vả làm ra mà lại bây giờ lại hàng ngày thì phải đi cúng dàng Trai tăng làm gì, cứ mua cá, mua thịt mà ăn, cúng tế ông bà tổ tiên thế là được rồi, nếu mà chư Tăng có đến thì đóng cửa đuổi đi. Bà đã làm như vậy trong suốt thời gian con trai đi vắng, sau ba năm buôn bán trở về thì La Bốc mới cho người về báo và xem xét công việc gia đình. Lúc bấy giờ bà Thanh Đề biết con về, cho nên giả vờ bày ra chuyện sửa soạn cúng trai tăng đã xong rồi, bát đũa vẫn còn chưa dọn hết. La Bốc lúc bấy giờ trở về nhà cứ đi ba bước lạy một lạy- tam bộ nhất bái, hàng xóm láng giềng người ta có tới. Người ta nói rằng là đằng trước không có Phật, bên trên không có Tăng thì ông lạy ai, bảo rằng – tôi lạy Mẹ tôi, La Bốc nói như vậy hàng xóm bảo mẹ ông có cái gì mà đáng lạy, bảo- mẹ tôi hàng ngày cúng dàng Trai Tăng 500 vị, thật là xứng đáng để lễ lạy. Hàng xóm người ta bảo- bà ấy nói nói xạo, tức là nói dối đấy, không có chuyện đó đâu, hàng ngày mua gà mua vịt giết thịt để ăn, chư tăng đến, người nghèo đến là bà ấy đuổi, chửi rủa có gì mà đáng lạy. La Bốc lúc bấy giờ là nghe thấy như thế nhưng sét đánh ngang tay rồi ngất xỉu. Bà mẹ nghe thấy như vậy rồi chạy ra rồi chỉ trời, chỉ đất thề với con rằng – con phải tin mẹ, con đừng tin người ngoài. Nếu mà mẹ nói dối con thì mẹ chết đọa địa ngục. Và trong Kinh nói, do cơ cảm ác báo, quả nhiên là bảy ngày sau bà Thanh Đề tự nhiên đột tử và qua đời. La Bốc cũng thủ hiếu ba năm, hàng ngày là đắp mộ cho mẹ, rồi làm những các cái việc thiện để hồi hướng công đức cho mẹ, để cúng tế theo lối tại gia, và sau đó thì nghĩ đến công đức của cha mẹ đều đã mất rồi, không biết làm thế nào để báo bấy giờ mới quyết định đi xuất gia. Sau khi tu hành đã đã chứng đắc được Lục Thông, tưởng nhớ đến cha mẹ và đi tìm, thấy cha thì đã sinh lên cõi trời Đao Lợi. Còn tìm mẹ khắp các nơi không thấy và cuối cùng thấy mẹ bị đọa vào trong địa ngục A Tỳ, thành sắt lửa cháy. Nhờ vào năng lực thần thông, bản thân Ngài xuống được địa ngục nhưng cũng không cứu mẹ ra được, mang cơm đến cho mẹ ăn- cơm biến thành than lửa cũng không nuốt được liền trở về cầu Phật chỉ dạy. Vì cái tội- một là do tham lam, bỏn xẻn, keo kiệt phải đọa làm ma đói, đọa làm ngã quỳ; do mẹ ông khinh nhờn Tam Bảo, bất kính với chư Tăng, cho nên đọa vào địa ngục. Bây giờ ông muốn cứu mẹ ông thì phải đợi đến ngày mà chư Tăng kết thúc ba tháng kết hạ an cư, do sự tu tập viên mật trong ba tháng ấy công đức nó tăng trưởng, thiết lập pháp hội Vu Lan sắm sửa tứ sự cũng dàng như Pháp, để cho mẹ ông đối với chư Tăng mà sám hối tội phỉ báng, rồi đem những tài sản mà của cha mẹ để lại để đem bố thí và cúng dàng. Có làm như vậy mới có thể giúp cho mẹ của ông tiêu trừ được nghiệp chướng và sinh lên cõi lành. Ngài Mục Kiền Liên lúc bấy giờ đã phải về nhà bán toàn bộ gia sản mà cha mẹ để lại. Một chi tiết là phải đem toàn bộ gia sản của cha mẹ bán đi – bởi vì đấy chính là cái gốc mà sinh tội, cái gốc sinh tội là vì tham lam tài sản, vì quý tiếc tài sản. Cho nên bà Thanh Đề có ba cái tội rất nặng. Một là tội sát sinh hại vật để ăn uống, cúng tế, mà cúng tế là cúng tế quỷ thần, tức là tà kiến mê tín. Đấy là cái tội thứ nhất. Tội thứ hai là keo kiệt- không bố thí cho ai, không cúng dàng cho ai và thứ ba là phạm tội phỉ báng Tam Bảo. Tổ chức Pháp hội Vu Lan làm theo cách thức đức Phật dạy, là thức ăn năm món, trái cây năm màu đựng trong bình bát tinh anh, chờ giờ tự tứ thì là hợp thời dâng lên để cho bà Thanh đề – Mẹ của ngài Mục Liên Sám hối ba tội trên, phải cúng dàng, thỉnh chư tăng ở mười phương để cho bà sám hối tội bất kính với Tam Bảo. Bố thí cho kẻ nghèo, người khó để tiêu trừ cái tội tham lam, bỏn xẻn, keo kiệt; phóng sinh để sám hối tội sát sinh. Làm được ba việc đó mới trừ được ba tội trên. Mà nhờ năng lực chú nguyện của chư Tăng thì mới có thể tiêu trừ được tội lỗi. Cho nên ở đây chúng ta nên biết mục đích của việc tổ chức trai hội này là nhằm đến cái việc đó, và nhờ có việc đó mà bà mẹ của ngài Mục Kiền Liên mới có thể siêu thoát. Ở đây, tuy không nói đến nhưng căn cứ vào trong ý tứ của bản Kinh Tiểu Bộ của Phật giáo Nam truyền như tôi đã nói ở trên, trường hợp của ngài Xá Lợi Phất cũng có những ý tương tự. Câu chuyện của vua Ba Tư Nặc, nhận ngày trai hội có cúng dàng chư tăng về tứ tự sự, nhưng trong khi cúng dàng ông ta lại quên không đem phúc báu của sự cúng dàng đó hồi hướng cho vong linh của những người đã mất thuộc dòng họ của ông ấy. Cho nên, sau pháp hội đó thì rất nhiều những người mà thuộc cái dòng họ của ông ấy là ma đói, trở về đứng bên ngoài. Vì kinh thành có thần coi giữ, cho nên không thể vào được. Cho nên bản kinh đó có câu chuyện là kẻ đứng ngoài bức tường kêu khóc rất thảm thiết. Trong đêm ngủ thì thức dậy, nhà Vua nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thiết và hôm sau có hỏi với Đức Phật. Đức Phật nói đó chính là người thân của ông đang bị đói khát, do bị làm ngã quỷ không được ăn uống, không có quần áo mặc và mong nhà Vua làm những việc phúc để hồi hướng cho họ. Nhà Vua có hỏi phải làm thế nào, thì Đức Phật nói nên hướng đến chư Tăng để cúng dàng tứ sự, nên hướng đến kẻ nghèo, người đói để bố thí. Nhà Vua đã tổ chức một đại hội bố thí và cúng dàng. Đem phước báu cúng dàng đó hồi hướng cho họ. Cúng dàng là thức ăn và y phục đến chư Tăng, nhờ sự chú nguyện của Đức Phật và Chư Tăng thì những người thân của nhà Vua đã thoát khỏi cảnh là đói rách, nhưng vẫn không có nhà ở, không có nhà ở, và vẫn bệnh tật, họ vẫn vẫn tiếp tục mong nhà Vua phải làm phúc cho họ. Nhà vua có hỏi Đức Phật thì đức Phật nói rằng- muốn cho họ có nơi có chốn để ở, không phải là những người còn lang thang đây đó, không có nhà cửa thì phải xây dựng Tịnh Xá để cúng dàng chư Tăng, xây dựng chùa chiền để cúng Phật, rồi làm nhà để giúp cho kẻ nghèo người đói, đem cái phúc báu về nhà cửa đó hồi hướng cho người thân kiếp trước thì họ khắc có nhà cửa. Do đó ở đây nói đến cúng giàng bốn thứ. Nếu chúng ta cúng dàng thức ăn để hồi hướng cho những người đã mất, hồi hướng chứ không phải cúng cho họ ăn đâu nhé. Cúng dàng chư Tăng thức ăn để hồi hướng cho những người đã mất thì bản thân những cái người đã mất đó, nếu còn làm ngã quỵ thì được phúc báo về thức ăn, tức được no đủ, nhưng nếu không cúng dàng y phục thì họ vẫn rách dưới. Cho nên ngày tự tứ của chư Tăng là có cái lễ dâng y, dâng ca xa, Nam truyền Phật giáo gọi là lễ dâng y- Kathina Y công đức, cho nên là ngày đó họ phải dâng đủ tứ sự. Nếu mà cúng dàng y phục đến chư Tăng vào những cái ngày đó mà hồi hướng công đức thì những các cái vong hồn ngã quỷ này sẽ có cái phúc báo về y phục. Nếu cúng dàng sàng tọa, tức là giường làm đồ dùng, cái đó biểu thị cho nhà cửa và vật dụng thì những các cái quỷ đói đó có phúc báo về nhà cửa. Nếu cúng dàng chư Tăng thuốc thang thì những ngã quỵ đó mới được hưởng phúc báu về sức khỏe, không bị bệnh tật. Cho nên phải sắm sửa bốn vật dụng cúng dàng là biểu thị cho bốn nhu cầu cần thiết, tức là ăn uống, đồ mặc, thuốc chữa bệnh và giường nằm. Đấy là nhu cầu cần thiết hàng ngày thì ngã quỷ đó có đầy đủ phúc báu về bốn phương diện. Cho nên kinh Vu Lan cũng dựa trên điểm này của trong kinh Phật giáo Nam truyền để nói phải cúng dàng vào ngày tự tứ. Bởi vì trong lễ tự tứ thường có pháp hội dâng y, dâng thức ăn và dâng cả tứ sự. Vị nào đã dự các lễ cúng dàng, dâng y của Phật giáo Nam truyền thì quả thật là tất cả các thứ cúng dàng đó họ đều để vào những các cái bồn, cái chậu, bây giờ gọi là dùng các cái xô nhựa để tất cả xếp vào đó để cúng dàng đầy đủ cả tứ sự luôn- tọa cụ, ngọa cụ rồi y bát, rồi thức ăn rồi cho đến thuốc chữa bệnh và mỗi một vị một suất như vậy được để vào trong một cái thùng, cái chậu chúng ta gọi là cái bồn để cúng dàng. Và như thế thì chúng ta thấy rằng dù Kinh Nam truyền hay Kinh Phật giáo Bắc truyền kết tập ở những thời điểm khác nhau với mục đích khác nhau, nhưng điểm chung nhất vẫn là dựa trên giáo lý căn bản mà Đức Phật chế định, để phù hợp khế cơ khế lý, khế thời khế xứ. Và ở đây thì nói rằng, ngài Mục Liên đã thực hiện theo lời Đức Phật dạy- tổ chức pháp hội Vu Lan như Pháp. Và sau pháp hội đó thì thân mẫu của ngài Mục Kiền Liên mới có đủ phúc báu sinh lên cõi trời Đao Lợi, nghĩa là chưa ra khỏi sinh tử luân hồi, sinh lên cõi trời thì vẫn là nằm lục đạo, chưa phải là giải thoát cứu kính. Khác với trường hợp của Bồ Tát Địa Tạng, chúng ta biết rằng trong kinh Địa Tạng, thân mẫu của Bồ Tát Địa Tạng kiếp sau đã tu hành và tương lai trở thành Giải Thoát Bồ Tát, tức là xuất gia và giải thoát. Trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, đức Phật độ cho phụ mẫu chứng quả A La Hán vào trong niết bàn và có những kiếp phụ mẫu của Đức Phật cũng tu hành thành Phật. Cho nên ba cái bộ kinh là ba mức độ báo hiếu khác nhau, báo hiếu của ngài Mục Liên là của hàng Thanh Văn nằm ở trong phạm vi giúp cho cha mẹ sinh lại kiếp người hoặc cao nhất là sinh cõi trời. Còn báo hiếu của Bồ Tát Địa Tạng, tức hàng Bồ Tát giúp cho cha mẹ có thể giải thoát giác ngộ, tức là tu hành trở thành Bồ Tát. Còn báo hiếu của chư Phật là có thể giúp cho cha mẹ chứng nhập được niết bàn hoặc cũng tu hành đắc đạo thành Phật, như Phật không khác. Đấy là ba mức độ khác nhau.
Chúng ta sang phần thứ tư, xin mời các vị chúng ta đọc bài.
Kinh văn:
IV. NGÀI MỤC KIỀN LIÊN HỎI PHẬT: CÁC HÀNG PHẬT TỬ ÐỜI SAU CÓ THỂ LÀM LỄ VU LAN BỒN ÐƯỢC KHÔNG?
Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục Kiền Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chắp tay bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công đức Tam bảo và oai thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ não. Vậy về đời sau, trong hàng Phật tử, nếu có người muốn làm lễ Vu Lan Bồn nầy, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không?
Phật dạy rằng:
“Quý lắm! Nầy Mục Kiền Liên! Ðời sau, nếu có được các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vua, thái tử, các quan tể tướng, những hàng tam công cho đến thứ dân, vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày Rằm tháng 7 là ngày “Phật hoan hỷ“, làm lễ Vu Lan nầy, để cúng dường trai Tăng. Nhờ công đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ não, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỷ, được sanh trong cõi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng”.
Khi đó Ngài Mục Kiền Liên và bốn chúng đệ tử đều hoan hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày Rằm tháng 7, các hàng Phật tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Giảng giải chi tiết:
Ngài Mục Liên có thưa với Phật là vậy sau này các phật tử tại gia xuất gia muốn báo hiếu cha mẹ thì có thể thực hiện Pháp Vu Lan này được không? Đức Phật nói là được, nếu vào ngày tự tứ mà như Pháp cúng dàng, nếu cha mẹ còn hiện tại thì có thể hồi hướng phúc báu đó làm cho cha mẹ được tăng trưởng Phúc Tuệ, nếu đem công đức đó hồi hướng cho Thất Tổ Cửu Huyền đã mất thì cũng làm cho họ tăng trưởng được công đức, nếu những người mà còn đang vướng mắc, chưa được siêu thoát thì cũng có thể nhờ đó mà siêu thoát. Cho nên chúng ta thấy rằng cứ đến rằm tháng 7 hàng năm, với truyền thống tri ân, báo ân, uống nước, nhớ nguồn, các phật tử chúng ta đều có trở về các tự viện tổ chức lễ Vu Lan báo hiếu và ngày nay thì còn có tổ chức các nghi thức theo truyền thống, còn có tổ chức lễ Vu Lan là bông hồng cài áo. Bông hồng cài áo là một sự phát triển mới của cố hòa thượng Thích Nhất Hạnh và cái đó mới chỉ có từ những năm 64, 65 trở lại đây. Vậy thì đặt vấn đề – năm nào chúng ta cũng tổ chức lễ Vu Lan, liệu ông bà cha mẹ tổ tiên của chúng ta có siêu thăng không? Và nếu siêu thăng rồi thì chúng ta còn làm để làm gì nữa, và nếu không siêu thăng thì tại sao? Vì đâu mà năm nào chúng ta cũng phải làm? Đây là vấn đề mà chúng ta phải đặt ra, không phải là chúng tôi nêu ra đâu mà rất nhiều những người Phật tử chúng ta cũng nghi ngờ về chuyện đó. Có người đã từng hỏi – năm nào chúng con cũng đến chùa cúng Vu Lan cho ông bà chúng con thì không biết là ông bà chúng con có siêu thoát không và nếu siêu thoát rồi thì sang năm con còn có phải làm nữa không hay là thôi không làm. Thực ra đây là một vấn đề tương đối tế nhị và cũng là vấn đề khó đối với chúng ta. Tôi nêu có mấy vấn đề như thế này để các vị chúng ta suy nghĩ. Chúng ta vẫn làm nhưng chỉ làm trên vấn đề hình thức, đấy chỉ là lễ cầu siêu thì đúng hơn là chúng ta tổ chức Pháp hội Vu Lan. Bởi vì Pháp hội Vu Lan là phải tổ chức vào ngày sau khi chư Tăng đã tự tứ. Tiền an cư thì tự tứ vào ngày 16 chứ không phải là ngày rằm tháng 7. Và như thế lễ Vu Lan phải tổ chức sau ngày 16/7. Còn nếu như làm hậu an cư thì phải sau ngày 16/8. Bởi vì ở trong Kinh có nói- vào ngày tự tứ của mười phương Tăng- chính là ngày Tết của chư Tăng- kết thúc ba tháng an cư và chư Tăng sau khi đã làm tự tứ xong, sám hối thân tâm được thanh tịnh, do công đức tu tập ba tháng cho nên công thức tăng trưởng. Vì thế cái năng lực chú nguyện và sự cúng dàng của chúng ta như Pháp thì mới có thể giúp cho cái lễ này được thành tựu, nhưng mà ngày nay thì chúng ta không có tổ chức được vào những ngày đó, có thể là bắt đầu đầu tháng 7 chúng ta đã tổ chức rồi, tức là chưa đến thời điểm tự tứ, hoặc sau khi mà tự tứ thì chúng ta lại không tổ chức. Đấy là điểm thứ nhất. Thứ hai nữa là, trong lễ Vu Lan chúng ta không thỉnh được thập phương Tăng, thường thì chùa nào là làm ở chùa đó. Đây tôi đang nói ở Bắc Truyền, chứ Nam truyền thì chúng tôi biết, lễ dâng y tức là Ca Thi La sẽ phải thỉnh thập phương Tăng, nhưng mà ở các chùa Phật giáo Bắc truyền thì phần lớn chùa chỉ có một hai người thôi, cho nên phần lớn không có đủ Tăng, theo luật phải có bốn vị trở lên. Chúng ta biết rằng thời ngài Mục Liên cúng dàng trai Tăng cho mẹ, trong Kinh nói, ngoài Đức Phật ra còn có 500 vị Thánh Tăng A La Hán, tức là tất cả những vị mà tham dự Pháp hội Vu Lan thời ngài Mục Kiền Liên là đều là Thánh Tăng. Ngày nay, dẫu có thể được cả thập phương Tăng đi chăng nữa, thình được 500 vị sư đi chăng nữa thì chỉ là phàm phu Tăng mà thôi. Đây là một sự khác biệt. Thứ hai là vật phẩm cúng dàng. Chúng ta ngày nay chỉ đến là ghi tên vào một sớ cầu siêu và cúng một chút gọi là tịnh tài. Thực ra số đó không đáng bao nhiêu, không đủ khả năng để sắm lễ gồm tứ sự để cúng dàng một vị Tăng. Bởi vì ngài Mục Liên cúng mỗi một vị Tăng vật phẩm cúng dàng đầy đủ cả tứ sự. Bây giờ chúng ta không sắm tứ sự mà chỉ sắm hương hoa cúng Phật và chỉ chăm chăm là ghi tên và đọc sớ mà thôi, cho nên là mục đích và phương pháp chúng ta làm đã không đúng căn bản với Kinh. Thứ ba, lễ Vu Lan phải cúng dàng trai Tăng sau ngày tự tứ và trước khi dùng trai Tăng thì chư Tăng phải chú nguyện, tức là phải có cúng trai và phải cúng vào trước giờ Ngọ. Nhưng bây giờ chúng ta lại cúng Vu Lan vào buổi tối cúng Vu Lan vào buổi chiều, rồi cúng đàn trần tế – điều đó lại không thuộc Pháp Vu Lan, bởi Vu Lan là cúng trai tăng và phải là cúng Ngọ. Đấy chính là những điểm mà chúng ta làm không như Pháp. Một cái điểm không như Pháp nữa là chúng ta biết rằng ngài Mục Kiền Liên đem tất cả tài sản của mẹ, của cha để lại đem cúng dàng. Nhưng bây giờ chúng ta không ai dám mang tất cả tài sản của cha mẹ để lại để làm việc bố thí và cúng dàng. Cho nên tâm lượng hoàn toàn khác nhau. Vấn đề mà các vị hỏi – liệu có siêu được không, thì chúng tôi nói rằng nếu mà cứ theo hình thức như thế thì đảm bảo một điều quyết chắc rằng không một chúng sinh nào có thể siêu thoát được, vì không đủ công đức để siêu thoát. Bản thân người làm, bản thân người thụ dụng cúng dàng, tức là cả Tăng cả tục, cả hai bên đều không ai đủ điều kiện. Vấn các vị nói, ông bà cha mẹ tổ tiên đều cầu siêu cả, nhưng có phải tất cả ông bà cha mẹ tổ tiên của chúng ta đã chết đều ở trong địa ngục, ngã quỷ, súc sinh đâu mà phải cầu siêu? Có những người sau tuần 49 hoặc bảy ngày người ta đã sinh lên cõi trời hoặc người ta đã sinh lại. Có những người như vậy thì chúng ta siêu độ cho họ làm gì? Không cần phải siêu độ. Nhưng bởi vì chúng ta cũng chẳng biết rằng ai đã siêu, ai chưa siêu và cứ ghi tên tất vào sớ cầu siêu – cái đó là nhắc nhở tên họ mà thôi. Còn nếu thật sự chúng ta có cúng dàng như pháp, có công đức thì đấy là hồi hướng công đức. Hồi hướng công đức thì trong Kinh Địa Tạng nói rồi – bảy phần công đức của chúng ta chỉ hồi hướng được có một phần thôi, còn sáu phần là chúng ta hưởng rồi, một phần đó chúng ta gửi công đức đến cho họ. Ví dụ người đó đã được sinh lên cõi trời rồi, họ cũng nhận được công đức đó thì phúc ở cõi trời của họ tăng lên. Nếu người đó đã sinh lại có người, thì phúc ở cõi người của họ cũng tăng lên. Nếu họ có sinh vào ma đói thì cũng nhờ cái công đức bố trí cũng dàng đó, họ cũng bớt đói đi, chứ chưa chắc đã ra khỏi ngã quỵ. Hoặc giả, họ có làm súc sinh mà chúng ta hồi hướng công đức cho họ, thì kiếp súc sinh của họ cũng bớt khổ đi. Nếu họ ở trong địa ngục thì nhờ công đứcchúng ta hồi hướng đó, số năm tháng ở địa ngục rất dài cũng giảm bớt ít ngày, ít tháng và cũng có thể là ít năm, và cho đến bao giờ họ giảm được hết thì họ sẽ tự ra. Cho nên tại sao nói rằng, năm nào cũng phải làm. Bởi vì mỗi năm chúng ta chỉ làm được một chút công đức thôi, chứ không thể lớn được như ngài Mục Kiền Liên làm một lần là có thể triệt để, chúng ta thì không làm được, cho nên năm nào cũng phải làm. Năm nào cũng làm để nhắc nhở hiếu đạo, tâm hiếu. Mà tôi thì vẫn nói- tất cả những pháp hội Vu Lan hiện nay (đây là điều tôi nói thật, nhưng có lẽ nó sẽ mất lòng cả người xuất gia, người tại gia)-Tất cả các pháp hội Vu Lan từ xưa hiện nay đã và đang làm, đều làm theo hình thức chứ chưa có một pháp hội nào làm như Pháp trong Kinh đã đề ra. Đấy là điều thứ nhất. Thứ hai, bây giờ chúng ta đang biến Pháp đó trở thành việc mà làm cho người sống đến đó để nghe hát, nghe ca múa rồi cài hoa vào ngực áo – nó đã làm thay đổi hoàn toàn cái mục đích và pháp sự trong kinh Vu Lan Đức Phật đã chỉ dạy. Mặc dù chúng ta vẫn tuyên dương, hiếu đạo, vẫn nhắc nhở người ta về chữ hiếu nhưng mà chúng ta đang làm chệch hướng những điều trong Kinh đã chỉ dạy. Nếu chúng ta cứ bình tâm suy nghĩ một chút thì thấy những việc chúng ta đang làm phải như Kinh, như Luật, như Phật đã dạy. Lợi ích không lớn, công đức không có nhiều và lợi ích cho cả kẻ còn người mất không đạt được kết quả bao nhiêu. Vì vậy, chúng ta phải suy nghĩ lại mà làm cho đúng pháp của Phật mới có thể đem lại lợi ích.
Hôm nay, chúng tôi xin dừng buổi giảng ở đây, kính chúc các vị có một buổi tối an lành và luôn luôn nhớ đến công đức sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên nhiều đời và tìm cách tu học để báo đáp.
Nam Mô A Di Đà Phật!
VU LAN BỒN- Phần 2
Kính thưa đại chúng, hôm nay chúng ta tiếp tục bài thứ hai, nói về Pháp Vu Lan Bồn, xin mời các quý vị nào phát tâm đọc bài.
Kinh văn:
V. Ý NGHĨA ÐỨNG ÐẮN VÀ ÐẦY ÐỦ CỦA SỰ BÁO HIẾU THEO QUAN NIỆM ĐẠO PHẬT
Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan. Không phải mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan, là đã tự cho mình là người con chí hiếu vì đã làm đầy đủ hiếu đạo.
Như trên đã nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả.
Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần.
1. Báo hiếu về vật chất: Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc, săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình.
Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm việc cho cha mẹ được vui vẻ thỏa mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong vòng sinh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đầy đủ.
2. Báo hiếu về tinh thần: Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần. Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát. Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật, làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báu, và sinh trong cảnh giới sáng sủa nhẹ nhàng.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây, phần này nói về ý nghĩa đúng đắn của việc báo hiếu theo tinh thần đạo Phật, đã sinh ra làm người ai cũng có cha mẹ và con người khác với các loài cầm thú là có hiếu đạo. Tuy nhiên, chúng ta quan sát trong các loài động vật cũng có quan hệ vợ chồng, cũng có loài có giữ được quan hệ phụ tử, tức là quan hệ cha con và cũng có những loài thể hiện được đức hiếu của nó nhưng không trọn vẹn bằng loài người. So với chúng sinh trong lục đạo thì cả chư Thiên cũng không thể sánh được bằng với loài người về đức hiếu, phải khẳng định rõ như vậy. Con người chúng ta có hai cái phần. Một là phần cơ thể vật chất, hai là tinh thần và trong kinh thì đức Phật phân tích năm yếu tố- đó là sắc, thụ, tưởng, hành và thức. Báo hiếu trong có cái nghĩa là phụng dưỡng. Phụng tức là vâng lời cung kính, tôn trọng. Dưỡng là nuôi dưỡng. Vậy chúng ta phải phụng dưỡng cha mẹ ở hai phương diện. Một là phụng dưỡng về phương diện vật chất, hai là phụng dưỡng về phương diện tinh thần. Cơ thể vật chất này là cơ thể tứ đại. Chúng ta phải biết chăm sóc thân vật chất tứ đại của cha mẹ, làm sao để được khỏe mạnh, ít bệnh và đây là chính nhu cầu về vật chất. Do đó đối với từng độ tuổi khác nhau, từng cách sinh hoạt khác nhau và thói quen khác nhau thì chúng ta làm thế nào có thể thích nghi được, và phải đảm bảo nuôi dưỡng được cơ thể vật chất ấy một cách tốt nhất, nhưng lại phải đảm bảo yếu tố thiện lành nhất. Chứ không phải là đáp ứng mọi nhu cầu vật chất cho cha mẹ nhưng lại không thiện và không lành thì không phải hiếu đạo. Cho nên đức Phật, nói trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, chúng ta không thể dùng những các phương tiện bất thiện để dưỡng thân cùng phụng dưỡng cha mẹ. Nếu đồng tiền của chúng ta là bất thiện mà nuôi dưỡng cha mẹ thì đấy không phải hiếu đạo, đang tạo tội và nếu chúng ta vì cái nghiệp đó mà bị đọa lạc thì chắc chắn cha mẹ chúng ta cũng không tránh khỏi liên lụy. Do đó báo hiếu bằng vật chất nhưng tạo ra vật chất ấy phải bằng phương tiện thiện. Thứ hai nữa, vật chất mà chúng ta dưỡng cha mẹ nó phải lành tức là nó phải phù hợp với tinh thần của đức Phật- phải đảm bảo thanh tịnh, nó không gây nên các vấn đề liên quan đến sức khỏe. Ví dụ như là chúng ta mà phụng dưỡng cha mẹ rồi bữa nào cũng ăn thịt, ăn cá cho nó khỏe. Hoặc giả các thức ăn độc hại, hoặc giả những thứ bổ thật, quý thật, nhưng mà đối với sức khỏe của người già khả năng hấp thụ của họ mà không hấp thụ được mà chúng ta là cứ bồi dưỡng thật lực thì không những là phí mà nhiều khi lại còn làm hại. Cho nên, việc tìm hiểu về sức khỏe của người cao tuổi để nuôi dưỡng là cả một vấn đề liên quan đến kiến thức, chứ không phải là cứ đồ ngon, đồ quý là chúng ta mua là hiếu kính. Dù là cơm rau đạm bạc nhưng mà sạch sẽ, tinh sạch được làm từ tấm lòng hiếu thảo của một người con thì cha mẹ ăn cảm được cái tâm của chúng ta, cảm được lòng thành của chúng ta. Nhưng chúng ta mua những món rất đắt tiền, nhưng cái tâm không thành, ý không tới nơi- mang về đưa cho cha mẹ, của biếu không bằng cách biếu đấy, mang về phụng dưỡng thì nó phải là phụng – phụng là dâng kính lên chứ không phải là quăng, bỏ đấy cha mẹ có ăn thì ăn, không ăn thịt thôi thì đấy là không phải là không thể gọi là hiếu được. Hiếu phải thể hiện cái gọi là nết ngay thật, chân thành, sự thảo hiền và vật chất đó phải được tạo bằng phương tiện thiện lành, như thế mới có thể được coi nuôi dưỡng thân vật chất của cha mẹ một cách đúng đắn.
Phương diện thứ hai là báo hiếu về mặt tinh thần. Tâm lý người già nhiều khi rất dễ tủi thân và cô đơn. Nhiều người già cô đơn giữa chính ngôi nhà của mình và cô đơn giữa bầy con cháu nhà mình. Bởi vì thế hệ khác nhau, cho nên tâm sinh lý và cách suy nghĩ khác nhau nhiều khi không chia sẻ được với con cái và con cái cũng không hiểu cha mẹ để mà chia sẻ. Đây là vấn đề thứ nhất. Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân có nói rằng nếu cả bố cả mẹ, tức là hai vợ chồng già mà còn thì còn có bạn, nhưng trường hợp một người mất sớm, một người ở lại thì quả thật là họ rất cô đơn, và nhiều khi con cháu không hiểu. Có những người từng chia sẻ với tôi là con thì nó bận đi làm cả tuần, sáng nó đi, tối nó mới về nhưng có khi mình đi ngủ rồi nó chưa về đến nhà. Các cháu thì đi học, thế là đóng cửa, các cụ giống như bị cầm tù. Ở trong cái ngôi nhà của mình không đi chơi được, không ra bên ngoài được, con cái đi làm sợ để cửa cho bố mẹ ở nhà rồi sợ trộm nó vào nên khóa cửa khóa trái và đã nhiều trường hợp đáng tiếc xảy ra hỏa hoạn, các cụ không có đường để chạy mà không cứu được. Hàng xóm không sang chơi được, sợ là đưa chìa khóa cho các cụ rồi lúc nhớ lúc quên lúc đóng cửa, lúc không, các cụ giống như bị giam lỏng vậy. Nhiều cụ nói chuyện rằng là muốn vào chơi với các cháu nhưng mà nó cũng không không nói chuyện với ông bà, bởi vì cái suy nghĩ của chúng nó khác, rồi nó có đòi hỏi cái không gian riêng và ông bà mà bước vào phòng các cháu là nó đuổi ra, nó bảo bà đi ra nó không cho vào, nó cũng không nói chuyện. Vì thế, , về mặt tinh thần, nhiều khi các cụ suy sụp về cái chuyện đó mà trở thành mất tinh thần. Rồi cả tháng, cả tuần có khi thứ bảy, chủ nhật có rỗi thì mới được đưa đi chơi, còn không thì thôi. Thế là ngày thứ bảy, chủ nhật nó có được nghỉ thì nó cũng đi chơi đây đi đó cũng có đưa bố mẹ đi đâu. Cho nên đấy chính là những vấn đề liên quan đến suy nghĩ của người già, mà nhiều khi chúng ta làm con làm cái chúng ta không hiểu được. Cho nên ở đây, chúng ta muốn làm cho cha mẹ vui được, thì chúng ta phải hiểu được cha mẹ chúng ta, và chúng ta phải biết chia sẻ để động viên, để khiến cho các cụ, tạo cho các cụ niềm vui, tạo cho cha mẹ được những suy nghĩ tích cực. Vậy vấn đề là phải tạo được niềm vui trong cuộc sống đã, phải có suy nghĩ lành mạnh đã, và phải biết khẩu hiệu của Hội người cao tuổi bây giờ là phải sống vui, sống khỏe, sống có ích. Nếu người già có tình trạng như các Tổ có nói là ăn rồi chờ chết, cứ ngồi đấy đến bữa thì ăn, qua ngày đoạn tháng cứ ngồi đấy, không biết làm cái gì cả, trở thành vô dụng. Nhiều khi là các cụ thì cũng có suy nghĩ là mình già mình không làm gì được thì trở thành cái gánh nặng cho con cháu và cho mình, trở thành người vô dụng bỏ đi thì rất nguy hiểm. Cho nên bổn phận làm con chúng ta là phải tháo gỡ được những vấn đề về tinh thần này cho cha mẹ. Thế rồi làm sao cho cha mẹ sống ở trong tinh thần của thế gian, trước hết là về đạo đức thế gian được vui vẻ, hòa đồng và cởi bỏ được vướng mắc ở trong tâm. Những lo nghĩ, những điều bất an, trong Kinh có nói là cha mẹ dù có trăm tuổi thì vẫn thương con 80, không bao giờ hết được tình thương con. Cho nên, việc cha mẹ mà quan tâm đến chúng ta thế này, thế khác, việc nọ, việc kia là không có gì là quá đáng. Nhiều khi được cha mẹ quan tâm tới, hỏi han việc là lại việc khác mà nhiều người bây giờ họ không không nghĩ như vậy, họ lại còn gạt đi và nói các cụ không được thế này thế kia, tức là chúng ta cũng hiểu cha mẹ chúng ta và chính cái đó nhiều khi là chúng ta đã làm cho cha mẹ trở nên buồn, ưu phiền và không còn niềm vui trong cuộc sống. Nếu mà cuộc sống mà cứ tẻ nhạt mà không có niềm vui gì cả, không tạo ra điều đáng sống thì buồn tủi. Và người ta muốn là chết hơn là cuộc sống. Cho nên việc báo hiếu về vật chất và tinh thần hàng ngày trong cuộc sống rất quan trọng.
Là Phật tử thì cao hơn nữa – phải báo hiếu theo tinh thần đạo Phật. Nếu cha mẹ đã biết Quy Y Tam bảo rồi, già yếu rồi cũng khuyên cha mẹ rỗi thì tụng Kinh, nghe Pháp, hoặc những buổi tối chúng ta có thể cùng nghe Pháp rồi cùng thảo luận với cha mẹ về những vấn đề Phật pháp, đấy cũng là một cách báo hiếu về tinh thần, cái đó chúng ta cũng là cách mà chúng ta nuôi dưỡng tinh thần cho cha mẹ. Hoặc giả, cha mẹ mắt mờ không đọc được thì chúng ta có quyển sách Phật pháp gắn với hàng ngày, buổi tối có thể ngồi đọc cho cha mẹ, để cha mẹ nghe rồi cũng có thể là cùng thảo luận với cha mẹ. Nếu mà cha mẹ mà có những các tập khí gì mà nó chưa được hoàn thiện, thì khéo léo dùng kinh, dùng sách, dùng các mẩu truyện trong Phật Pháp để đọc nhiều lần cho cha mẹ nghe, rồi lựa lời mà để khuyên để cha mẹ có thể bỏ được những cái tập khí xấu. Dành thời gian để có thể cùng niệm Phật với cha mẹ, cùng tụng Kinh với cha mẹ. Đó chính là chúng ta đang nuôi dưỡng tinh thần. Còn cha mẹ mà chưa biết Quy Y Tam Bảo thì khuyên Quy Y Tam Bảo. Tiền mà các cụ dành dụm được cũng nên khuyến khích làm những việc từ thiện, đừng có tích lũy để làm cái gì cả. Bởi vì con cái đủ các điều kiện để để lo các cụ không phải lo chuyện đó. Thế còn gặp những trường hợp mà gia đình khó khăn rồi bố mẹ dù già cũng vẫn phải giúp con cái trong việc mưu sinh, thì cũng phải hết sức quan tâm, đừng để cho cha mẹ mà quá mệt mỏi cho đến tận lúc già, lúc chết mà không được nghỉ ngơi. Cho nên người xưa có nói là cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, đến lúc mình có điều kiện muốn để báo hiếu thì cha mẹ không còn nữa. Lúc cha mẹ còn thì mình không quan tâm, không có điều kiện, rồi cũng không không để hết lòng hết sức để báo hiếu cha mẹ, sau này đến lúc khá giả rồi, làm ăn được rồi, muốn phụng dưỡng thì cha mẹ có còn đâu mà phụng dưỡng. Thắp hương ở trên ban thờ, dâng các thứ lên thì cha mẹ đâu có dùng được. Cho nên, báo hiếu tốt nhất là khi cha mẹ còn, phải làm hết khả năng. Ngày xưa tiền thân của Đức Bản Sư của chúng ta cũng vậy, nhà có hai mẹ con thôi nên Ngài không dám cưới vợ, không dám sinh con, bà mẹ thì lúc nào cũng giục cưới vợ để có con, có cháu. Tâm lý người già là như vậy, nhưng Ngài thì lại nghĩ khác. Rằng nếu mà bây giờ mà lấy vợ thì mình phải nuôi vợ, sinh con, phải nuôi con và như thế ngoài chuyện san sẻ vật chất ra, thì phải san sẻ tình cảm cho vợ, cho con. Như thế thì việc chăm lo vật chất với với tình cảm cho mẹ là không trọn vẹn được. Trong lúc bấy giờ Ngài quyết không lấy vợ, không sinh con và để phụng dưỡng mẹ hết đời và lúc nào mà mẹ qua đời rồi thì lúc bấy giờ Ngài mới nói rằng bấy giờ ta mới nghĩ đến việc là xây dựng gia đình. Quả thật trong trường hợp nghèo khó mà xây dựng gia đình thì phải chăm con, chăm vợ mà nhiều khi bây giờ là người ta chăm con, chăm vợ hơn cả chăm cha mẹ, nghe vợ nghe con thì hơn cả nghe cha mẹ, cho nên dẫn đến cha mẹ bị bỏ rơi, bị bỏ quên và không có người phụng dưỡng. Đó là những việc liên quan đến phụng dưỡng phụ mẫu, làm thế nào để nuôi dưỡng được cái thân vật chất nhưng điều quan trọng hơn là nuôi dưỡng tinh thần, và phải hướng cha mẹ đến cái việc tu tập, hướng đến tụng Kinh niệm Phật, phóng sinh tu phúc để hướng đến việc vãng sinh cõi lành, sinh thiện thú và cũng hướng đến con đường giải thoát giác ngộ. Đấy là chính là chúng ta làm trọn vẹn được cái việc là báo hiếu ở trên hai cái phương diện vật chất và tinh thần.
Chúng ta sang cái một số vấn đề mà chúng ta đặt ra ở đây gọi là quyết nghi. Xin mời các vị tiếp tục đọc bài.
Kinh văn:
VI. QUYẾT NGHI
1. Có người nghi: Chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện làm sao vong linh được siêu độ?
Ðáp: Tinh thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư tưởng, chăm chú vào một việc gì, thì sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường. Kinh nói: “Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện“; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, thì không việc gì làm không thành tựu. Chúng ta thấy như các nhà thôi miên, dùng tinh thần sai sử người đi, đứng, nằm, ngồi, v.v…đều được cả. Người thế gian dụng tâm còn được như thế, huống chi chư Tăng trì trai giữ giới thanh tịnh tu hành, tất nhiên tinh thần phải sáng suốt, mạnh mẽ hơn. Như thế mà các vị lại tập trung tư tưởng, thành tâm chú nguyện thì vong linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh. Lại nữa, Phật và Bồ tát sẵn có lòng từ bi tế độ, thương tất cả chúng sinh như mẹ thương con. Chúng ta cảm, thì lo gì các Ngài không ứng hiện? Cũng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu nước hồ không xao động và lóng trong, thì trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ.
2. Có người hỏi: “Y như lời Phật dạy trong kinh Vu Lan, thì phải sắm cho đủ các thứ thực phẩm và vật dụng quý báu để cúng dường chư Tăng. Như thế đối với những người nghèo hèn thì sao lo được?
Ðáp: Bổn ý của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm mà thôi, chứ không phải người nào cũng sắm đủ những thứ ấy. Ðối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đã tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay dĩa quả, nhưng có lòng chí thành, thì cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí thành, thì cũng chưa có thể gọi là đầy đủ.
3. Có người hỏi: Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, tự mình có thể cứu vớt cha mẹ được, cần gì phải nhờ đến chư Tăng. Cũng như các ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần gì phải nhờ đến các quan khác?
Ðáp: Bà Thanh Ðề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục Kiền Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng dường Phật, Tăng, lúc ấy bà sanh lòng hoan hỷ cũng muốn cúng dường Phật, Tăng. Do đổi niệm bỏn sẻn, trở lại tâm rộng rãi, mà bà được giải thoát. Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan hỷ mở rộng, thì cũng khó mà cứu vớt được.
Giảng giải chi tiết:
Trong phần quyết nghi có ba vấn đề được đặt ra. Một là, có người nghi chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện thì vong linh có được siêu độ hay không. Trong đây giải thích rằng đấy là do sức mạnh của tâm định. Thực ra vấn đề liên quan đến cầu siêu, siêu độ này cũng đã nói đi, nói lại cũng đã nhiều lần, nhưng hôm nay liên quan đến vấn đề này cũng xin nhắc lại vấn đề cầu siêu và cầu an. Ở đây chúng ta đặt vấn đề Vu Lan là cầu siêu, liệu chư Tăng và phật tử bây giờ chúng ta có thể tụng Kinh và làm cho người khác siêu độ được không? Nếu nói làm được thì cũng có thể làm được, nhưng nếu nói không làm được thì cũng có thể là không làm được. Vậy làm được là lý do ở đâu và không làm được là lý do ở chỗ nào. Như trong Kinh chúng tôi thường dẫn là những người Bà La Môn cầu nguyện cho những người đã chết ở bên sông Hằng và Đức Phật đã dùng hai cái dụ để chỉ dẫn. Nếu ném hòn đá xuống mà mọi người xúm vào cầu nguyện làm cho hòn đá nổi lên được thì Đức Phật nói cũng giống như một người đọa vào trong địa ngục mà người ta cầu nguyện cho họ ra khỏi địa ngục. Phải khẳng định rằng, không có ai có đủ năng lực cầu nguyện để làm cho hòn đá đang chìm dưới nước đáy song có thể nổi lên trên mặt nước. Và Đức Phật nói rằng cũng giống như vậy, một người mà đã rơi vào địa ngục thì không ai cầu nguyện cho họ ra khỏi địa ngục. Một người đọa về địa ngục mà chúng ta làm lễ cầu siêu cho họ, thì họ có siêu được không? Trường hợp thứ hai nữa, Phật nói đổ dầu trên mặt nước để mọi người đều chú nguyện cho dầu chìm xuống, mọi người nói là không thể làm được, thì Đức Phật nói nếu mà một người đã đủ phúc sinh lên cõi trời, cả thiên hạ cầu nguyện hoặc là bây giờ gọi là nguyền rủa họ khiến cho họ đọa vào địa ngục thì họ cũng không bao giờ họ rơi vào địa ngục được cả. Vậy thì sức mạnh cầu nguyện nó ở chỗ nào. Ở đây, đó chính là định tâm, cái đó đúng. Nhưng mà định ở chỗ nào, mức nào. Trước đây chúng tôi đã từng giảng Kinh Địa Tạng, xin nhắc lại trong Kinh Địa Tạng có hai câu chuyện tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng. Câu chuyện thứ nhất, tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng là một vị Thánh Nữ Bà La Môn rất có đạo đức và trời người cũng kính. Bấy giờ thân mẫu có tà kiến giống như trường hợp mẹ của ngài Mục Kiền Liên, rồi sát sinh hại mạng hay ăn trứng, cái loài cá v.v. rồi cũng bất kính với Tam Bảo, và sau đó thì bà ấy đã qua đời. Và lúc bấy giờ Thánh Nữ Bà La Môn đó đã đến chùa dâng hương hoa để lễ Phật và cầu nguyện. Do lòng chí thành mà cảm được Đức Phật quá khứ là Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai xuất hiện và nói cho rằng nếu ngươi muốn biết mẹ người sinh ở đâu ấy thì hãy trở về nhà, một lòng niệm danh hiệu của ta sẽ biết được mẹ ngươi sinh ở đâu. Và trong khi đó thì Thánh Nữ Bà La Môn xin đức Phật hãy chỉ cho con biết.Đức Phật không chỉ ra mẹ ngươi sinh vào đâu, mà người muốn biết thì ngươi phải tự tu và phải niệm danh hiệu của ta đạt đến nhất tâm bất loạn thì ngươi tự biết. Do lòng chí thành cho nên Thánh Nữ Bà La Môn đã một lòng mà nóng ruột vì muốn báo hiếu cha mẹ và biết rằng mẹ mình do ác nghiệp như vậy, mà xét về nhân quả Đức Phật dạy chắc chắn đọa lạc, có điều chưa biết là đoạ vào địa ngục nào mà thôi. Do lòng chí thành như vậy, vị ấy đã niệm danh hiệu Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tức là niệm Phật đấy, một ngày một đêm đạt đến nhất tâm bất loạn, thì tự thấy mình xuất hiện ở trên bờ biển, rồi tự thấy mình đối diện với với Quỷ sứ, rồi trong câu chuyện đó hỏi đáp và các vấn đề liên quan đến ngục thì chúng ta không nói, sau đó hỏi thăm đến thân mẫu của mình thì cai ngục tốt đã cho biết mẹ của Ngài đã sinh lên cõi trời. Nhưng mà có một cái chi tiết rất nhỏ trong đó là khi Ngài xuống, nhập định mà xuống nước địa ngục thì Quỷ sứ chắp tay đỉnh lễ vị Nữ Bà La Môn, Phật tử tại gia đấy là gọi là Bồ Tát. Thế thì ở đây phải đưa ra một vấn đề là một người tại gia tu tập bằng phương pháp môn niệm Phật hoặc là thiền định có thể nhập định mà tới được địa ngục, thì rõ ràng từ địa vị phàm phu đã tiến lên quả vị bồ tát, do từ cái quả vị phàm phu này mà trở thành một vị Bồ Tát thì đủ năng lực để mà thay đổi được cái tâm của bà mẹ. Đây là vấn đề chuyển được tâm của người đang đọa lạc hay không. Mà khi chuyển được tâm của họ, bởi vì là bản thân người đang bị đọa khổ trong địa ngục, thì trong Kinh nói lúc nào họ cũng khao khát, mong ngóng quyến thuộc đến để trợ giúp cho họ. Và chính sự tu tập ấy mà đạt đến năng lực như thế thì có khả năng cảm thông và trợ giúp, có khả năng trợ giúp như vậy thì họ biết ăn năn, biết sám hối, biết hồi tâm và chỉ cần trong lúc bấy giờ như trong Kinh Dược Sư nói- người đang ở trong địa ngục chỉ cần quay đầu niệm một câu Phật hiệu là đã có thể thoát ra khỏi điạ ngục rồi. Trường hợp của thân mẫu, tiền thân của Đức Địa Tạng đã thoát khỏi địa ngục trong trường hợp này. Đặt vấn đề ở đây là chư Tăng tụng Kinh và chú nguyện là siêu độ thì trở thành một vấn đề hiểu lầm và hiểu sai. Và chính vì vậy, trong lễ cầu siêu hiện nay tất cả những gia đình thí chủ, dù là Phật tử thuần thành hay không phải là Phật tử thuần thành thì phó mặc tất cả mọi việc cho chư Tăng, tức là Phúc Chủ Lộc Thầy đấy, giao hết chuyện đó cho chư Tăng. Chư Tăng muốn chú thế nào thì chú, muốn nguyện thế nào thì nguyện, nhờ vào năng lực của chư Tăng và hoàn toàn là những con cháu tại gia không có làm gì cả là một vấn đề sai lầm. Chúng tôi đã từng nói là giả sử có một người thân của chúng ta bị đi tù, thì chúng ta làm thế nào để cho họ sớm ra được khỏi nhà tù, có phải là hàng ngày mà chúng ta cứ cầu nguyện mà mà họ ra tù được không? Chúng ta có cầu nguyện đến cỡ nào đi chăng nữa, đến hết nhà ông cai tù này, ông cai tù kia, đến các cấp chính quyền này khác, các thứ đưa đơn để để cầu xin, giống như bây giờ gọi là viết sớ đưa đơn để cầu xin, liệu người ta có cho cái người thân của chúng ta ra khỏi tù không? Trường hợp này là không xảy ra. Vậy làm thế nào để cho họ ra khỏi tù sớm trước thời hạn. Như đã nói rồi, có ba điều kiện. Một là chính bản thân người đang tù tội đó họ phải nhận thức được tội lỗi của họ và biết quay đầu, tức là cải quá tòng tân, bỏ cũ, đổi mới, sửa lại chính mình. Và thứ hai chính là sự trợ giúp tinh thần của gia đình, tức là thường xuyên thăm hỏi, động viên và khuyên họ là bỏ ác làm lành. Việc chúng ta tụng Kinh, niệm Phật, làm việc thiện để hồi hướng cho họ. Giống như chúng ta đi vào tù để nuôi người tù ấy, gọi là tiếp tế, trong Kinh Địa Tạng nói là bảy phần công đức như vậy thì người đã chết nhận được một phần. Và chúng ta tiếp tế cho họ bằng công đức mà chúng ta đã làm để hồi hướng cho những người đã mất. Và quan trọng hơn là trong tù phải có những quản giáo tốt, tức là những người làm việc cai quản đó có tâm thiện lương để giáo dục những người trong tù để họ sớm biết hối cải. Nếu người cai tù mà độc ác, tâm không tốt, giống như Quỷ sứ thì sẽ không có tác dụng giáo dục và khiến cho tù nhân không dễ quay đầu. Nhờ vào năng lực chư Phật, Bồ Tát giống như những người quản giáo ở trong tù. Cho nên có một vị quản giáo ở trong địa ngục, chính là Bồ Tát Địa Tạng. Cho nên Bồ Tát Địa Tạng phát nguyện giáo hóa chúng sinh trong địa ngục, làm cái nhiệm vụ giáo hóa. Nhưng còn hai yếu tố nữa là bản thân người đó nhưng chúng ta là nhầm lẫn ở chỗ là giao phó hết cho chư Tăng. Nếu mà giao phó hết cho chư Tăng thì không biết là bản thân các vị Tăng ấy có đủ định lực nhập định như là câu chuyện thứ hai ở trong Kinh Địa Tạng, tức là La Hán phúc độ, tức là vị đó là phải chứng quả La Hán mới có thể nhập định được, mới có thể biết được tiền thân của thân mẫu của Bồ Tát Địa Tạng sinh về đâu. Nhưng ngày nay thì tôi xin thưa là các vị khác tu tập thế nào không biết, nhưng tôi biết chắc chắn là tôi vẫn là phàm phu. Tôi không phải là Bồ Tát. Tôi cũng không phải là La Hán. Vì thế tôi không có khả năng ấy. Như thế, nếu các vị cầu an, cầu siêu và giao phó tất cả cho tôi- Thầy muốn làm thế nào thì làm, là tôi bó tay, tôi không làm được. Chúng tôi chỉ là người hướng dẫn, chúng tôi chỉ là người kết nối, tức là cái dây để kết nối giữa các vị với ông bà, tổ tiên của các vị mà thôi. Còn khả năng truyền dẫn tâm đó như thế nào, và năng lực cầu nguyện của các vị đến đâu ý, thì phụ thuộc vào các vị. Nếu tâm chúng tôi thanh tịnh thì nó giống như là cái đường dây tải điện, điện trở nó ít, thì khả năng truyền tải sẽ rất tốt. Nó giống như là cái sóng không nhiễu. Nhưng nếu chúng tôi mà tu không tốt thì theo ngôn ngữ bây giờ là điện trở lớn, tức là sức cản trở lớn, và sức cản trở lớn thì khả năng truyền thông tin đó- tâm của các vị tới những người kia là rất khó khăn. Cho nên là nói được thì cũng là làm được, nhưng mà nói không được cũng là không được. Bởi vì nó có điều kiện của nó chứ không phải cứ chư Tăng tụng Kinh cầu nguyện là được. Nói như thế không phải đê phản bác người này hay người kia nhưng cái gì đúng Phật Pháp thì phải nói cho đúng. Nếu mà nói rằng cứ cầu đi rồi siêu độ hết, mà chúng tôi, bản thân tôi cầu mà không biết có siêu hay không, thì đó là nói dối, nói lừa các vị. Tôi không nói như vậy, chúng tôi chỉ là người hướng dẫn các vị làm công việc đó, còn làm được hay không là ở tự thân các vị. Như tấm gương của Bồ Tát Địa Tạng, Đức Phật chỉ dẫn là hãy nhất tâm niệm danh hiệu ta thì ngươi sẽ biết mẹ ngươi sinh về đâu. Đức Phật thừa biết mẹ của Thánh Nữ Bà La Môn sinh ở đâu, nhưng Ngài không chỉ. Ngài để cho đích thân phải làm. Bởi vì huyết thống tình thân có một cái sự giao cảm, và chính vì nó thể hiện cái tâm hiếu, cho nên mới có thể thúc giục người ta niệm Phật một ngày một đêm mà có thể đạt được nhất tâm bất loạn. Không ai nóng lòng, nóng ruột hơn con cái muốn cứu cha mẹ, chứ còn không có quan hệ máu mủ gì, mặc dù cũng tu cái từ tâm, nhưng cái từ tâm của chúng tôi thì không thể nóng bằng cái tâm của người con có hiếu nóng lòng muốn cứu cha mẹ ở trong địa ngục. Tôi phải nói thật điều như vậy, dù chúng tôi có quán chiếu thế nào đi chăng nữa thì cũng không không mạnh bằng tâm của quý vị. Cho nên phải do các quý vị tự làm, dưới sự hướng dẫn của chư Tăng, chứ không phải cách là cứ đến rằm tháng 7 rồi ghi tên, nhờ Thầy đọc sớ, chả khác gì là cứ cầm đơn đi kêu cửa này kêu cửa kia để mong người ta tha, thì chúng ta có gửi hàng trăm lá đơn, chứ một vạn lá đơn mà xin cho người thân chúng ta ra tù trước thời hạn thì cũng không có ai xét cho ra cả.
Vấn đề thứ hai nữa là các vật dụng cúng dàng phải như Pháp, những người nghèo không có thì làm thế nào, đây đang luận về sự cúng giàng thì trong kinh nói về bố thí và cúng dàng. Thứ nhất là luận về điền, tức là người nhận cúng. Thứ hai nữa là luận về vật, tức là luận về giá trị vật chất cúng dàng. Và thứ ba mới là luận về tâm của người cúng. Ở đây phải là cả ba phương diện chứ không phải một phương diện.
Cúng dàng thứ nhất là điền. Điền, chư tăng là phúc Điền thì điền nó cũng có ruộng tốt ruộng xấu khác nhau. Cho nên nếu mà chúng ta mà gặp được phúc điền lớn ấy thì kết quả nó sẽ nhanh hơn. Cho nên trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật nói là cho 100 kẻ ác ăn không bằng cho một người thiện ăn; cho một ngàn người thiện ăn thì không bằng cúng dàng cho một người mà thụ tam quy ngũ giới ăn, cho 1000 người thụ tam quy ngũ giới ăn không bằng cúng một người tu thập thiện. Cũng như thế, tăng dần lên cho đến các vị Tỷ Khiêu, rồi Thanh Văn, rồi La Hán rồi cho đến là cao nhất là là chư Phật. Cho nên gọi là Phúc Điền, như tôi mới nói là điền có ruộng tốt, ruộng xấu. Cho nên khả năng phúc điền mà cúng dàng đến chư Tăng khác nhau. Các Hòa Thượng, các bậc tôn túc tu dày công, nhiều khi mình chú nguyện cả 100 câu không có tác dụng gì, nhưng các Ngài chỉ chú nguyện một câu là thành. Thì đấy là do năng lực của phúc điền.
Cái thứ hai nữa là luận về vật chất cúng dàng. Vật chất cúng dàng thì trong kinh có nói người nghèo cúng một hào bằng người giàu cúng cả một vạn. Bởi vì người nghèo người ta có một hào, tức là người ta đã kiệt lực rồi, người ta mang hết khả năng chỉ có một hào thôi, nhưng người giàu cũng một vạn thì một vạn với số tài sản của họ chẳng thấm vào đâu cả. Cho chỗ này là mới luận đến vật chất cúng nhiều hay ít là nó phụ thuộc vào hoàn cảnh của họ. Câu chuyện bà Lão cúng đèn là một bà già cúng một cái đèn để thắp cúng dàng Phật, bà mua ba xu dầu mà lại để vào trong cái bát mẻ, rồi cái bấc đèn không có, xé cái áo rách ra để làm cái bấc. Ngọn đèn đấy đã cháy mãi không tắt. Trong khi đó, vua Ba Tư Nặc cúng cả ngàn ngọn đèn, mà mỗi ngọn đèn to như cái bánh xe đều tắt hết. Cho nên 1000 ngọn đèn của nhà Vua cũng không sánh bằng cái ba xu dầu của bà ăn mày. Vì ba xu dầu của bà ăn mày là toàn bộ tài sản của bà. Nhà vua có cúng 1000 ngọn đèn thì so với tài sản của nhà vua chả thấm được đâu cả. Cho nên trong kinh mới nói là người nghèo, tuy rằng cúng một hào nhưng mà sánh bằng cái người giàu cúng cả vạn bạc.
Thứ ba mới luận đến tâm, tức là tâm có thành ấy không? Cho nên tâm mà thành thì dù không có cái gì cúng vẫn có thể thành tựu. Người mà cúng hằng hà sa số mà tâm không thành thì cũng không có công đức gì cả. Cho nên là cúng dàng ở đây luận trên cả ba phương diện. Một là Phúc Điền, tức là người nhận sự cúng dàng. Thứ hai là vật cúng dàng- nhiều ít, vật cúng giàng ấy có như Pháp hay không. Trong Kinh nói là vật cũng dàng phải như Pháp, trước hết là cái đồng tiền làm ra để sắm cái đó là như Pháp, thứ hai là chúng ta mua cái vật đó cúng dàng như Pháp và thứ ba là cách cúng dàng như Pháp. Thì ba cái này thì nó mới tạo như Pháp. Tôi ví dụ như này là không như Pháp- trong Kinh nói là chúng ta phải dâng tứ sự, tức là bốn cái món cần dùng cho người xuất gia gồm y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, và thuốc thang. Nhưng mà một vị thí chủ nào đó lại cúng Thầy một cái điện thoại chẳng hạn. Thì rõ ràng cái điện thoại nó không nằm trong tứ sự cúng dàng. giá trị là rất lớn nhưng đó là một vật phi pháp. Thế thì vật đã mà phi pháp, mặc dù là tiền của chúng ta là chân chính, tôi giả sử tiền đấy là chân chính mà vật phi pháp thì cả người cúng lẫn người nhận đều đọa. Hoặc giả, tôi thấy có những đám cúng mà chúng ta lại mang cả các loại nước uống, có bia có rượu ấy cho người ta uống, thì trong Bồ Tát giới nói rồi mang bia mang rượu cho người khác uống là đã đọa vào cái tội 500 kiếp không có tay. Hoặc là cúng phi thời, tức là không đúng lúc, không đúng thời, không đúng phép tắc, thì dù vật ấy có đúng đi chăng nữa vẫn không có tạo ra phúc được. Cũng giống như chúng ta gieo hạt giống vào ruộng, nhưng mà không đúng mùa để gieo thì chúng ta có gieo cũng chẳng lên được cây. Ba tháng mùa đông như thế mà chúng ta cứ gia công đi cày đi cấy, rét tức là không phải mùa vụ thì chúng ta không thể gieo được. Vấn đề liên quan đến cúng dàng nói ra thì nhiều khi động chạm, nhưng mà rất khó. Làm sao để chúng ta cúng dàng được như Pháp, thành tựu được như Pháp là rất khó. Thời bây giờ không phải bất kể một cái gì đều có thể làm được như Pháp được Pháp đâu, người nhận phải như Pháp, vật cúng giàng phải như Pháp và cách thức cúng dàng phải như Pháp. Ba cái như Pháp thì mới có thể thành tựu. Còn nếu không như Pháp thì xin thưa với các vị, chúng ta có cúng bao nhiêu cũng khó có thể thành tựu được. Thứ ba, ở đây nói rằng tại sao Ngài Mục Kiền Liên có năng lực như vậy mà không cứu được mẹ và phải dùng tới sức của chư Tăng, thì trong đây có giải thích nhưng mà chúng tôi xin nói thêm một ý như thế này: trong Kinh La Tiên Vấn Đạo ấy cũng đặt ra một câu hỏi như như vậy, nhưng cách trả lời của Ngài La Tiên thì có khác một một chỗ thế này: tội của của bà Thanh Đề nặng, nó như là một trái núi lớn, cho nên trong Kinh, Đức Phật nói là mẹ của ông gốc tội quá sâu, một mình ông dẫu rằng thần thông nhưng ông cũng không cách gì cứu được. Ngài La Tiên có nói nếu mà một trái núi lớn mà để lên một trên khúc gỗ, thì khúc gỗ ấy sẽ chìm và trái núi cũng sẽ chìm. Nhưng kết nhiều cái cây gỗ lại thành một cái bè lớn, thì có thể để cả một trái núi nặng mà không chìm. Ở đây dùng năng lực của chư Tăng chính là điều này. Thứ hai nữa là gốc tội của bà Thanh Đề là do phạm tội bất kính với Tam Bảo và đặc biệt là bất kính với Chư Tăng. Cái điều thứ ba nữa là liên quan đến bà ấy là không có cúng Trai tăng mà sát sinh, lại nói dối rằng cúng trai tăng cho nên cần phải có sự hiện diện của chư Tăng để sám hối tội này. Chứ không phải do năng lực của Ngài Mục Kiền Liên hay năng lực của chư Tăng. Mà nói là ai buộc thì người ấy cởi, tội ở đâu thì gỡ ở đó. Cho nên bà phải đối với thập phương chư Tăng để sám hối, phải dùng năng lực của chư Tăng nhân ngày tự tứ thì sức mạnh của cái bè là ở điểm này. Cho nên, chỗ này chúng tôi xin nhắc thêm một ý như thế nữa thì chúng ta mới thấy sáng tỏ được vấn đề là tại sao Ngài Mục Kiền Liên một mình không cứu được là vậy.
Bây giờ chúng ta sang cái phần kết luận. Xin mời các vị đọc nốt.
Kinh văn:
C. KẾT LUẬN
Chúng ta đã rõ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu Lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên mà báo hiếu, thì chắc chắn cha mẹ hiện tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỷ u đồ, và hưởng vui giải thoát. Chuyện “Mục Liên, Thanh Ðề” không có gì là hoang đường, huyền bí, mà là một hiện tượng có thể giải thích được. Ðó là do lòng hiếu thảo chí thành của người con và công đức trì trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi sự hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: “Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp“. Kìa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư tưởng mà còn có thể xoay chuyển sự vật được, huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết tinh của bao nhiêu phước đức trí huệ, thanh tịnh, lại không thông cảm đến người ở chốn tội khổ hay sao? Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, thì tự lực và nguyện lực cũng dõng mãnh vô lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vỡ được lao ngục xiềng xích khổ hình ở chốn u đồ.
Pháp Vu Lan nầy chính là phương pháp thần diệu để cứu rỗi vong linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm.
Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đã khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu Lan là đủ.
Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương diện vật chất và tinh thần.
Như thế mới khỏi hối hận và than thở như Thầy Tử Lộ:
“Mộc dục tịnh nhi phong bất đình !
Tử dục dưỡng nhi thân bất tại“.
(Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng! Con nuôi dưỡng báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn sống).
Giảng giải chi tiết:
Ở đây thì chúng tôi muốn nhắc lại một lần nữa về vấn đề báo hiếu của chư Phật. Nếu nói rằng, chú nguyện được thì Đức Thế Tôn của chúng ta phúc đức trùm Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, công đức không ai sánh bằng Phật nhưng thân mẫu của Ngài cũng chỉ sinh lên có trời Đao Lợi. Vậy tại sao Ngài không cầu cho thân mẫu giải thoát giác ngộ được, mà cũng phải dành cái thời gian ba tháng lên cung trời Đao Lợi huyết pháp khai thị cho thân mẫu, để thân mẫu ngộ ra được Phật Pháp và quyết chí tu hành để bỏ cả cõi trời mà chứng nhập niết bàn, thì thân mẫu của Ngài cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cao nhất, nhưng dù có sinh lên cõi trời thì vẫn nằm trong luân hồi lục đạo, cho nên Đức Phật phải lên cung trời Đao Lợi, Kinh Địa Tạng chính là Kinh mà đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thân mẫu để cho thân mẫu hiểu rõ được lẽ đó. Mà Ngài không nói cái tấm gương của Ngài, mà Ngài nói cái tấm gương của Bồ Tát Địa Tạng để giúp thân mẫu ngộ được Phật tính tự tâm và tu, nhân đó mà thân mẫu của Ngài chứng được tam Thánh quả và sau đó sinh lên cái cõi trời Tịnh Cư Thiên và cuối cùng tương lai thân mẫu của Đức Phật sẽ chứng quả A La Hán. Thứ hai nữa là thân phụ của Ngài. Thực ra khi Ngài trở về hóa độ dòng họ Thích thì thân phụ của Đức Phật có xin phép xuất gia. Thế nhưng Đức Phật không đồng ý bởi vì bây giờ Ngài thành Phật mà thân phụ của Ngài đi tu thì trở thành đệ tử. Đó là chuyện trái đạo. Thứ hai nữa là Ngài đã cao tuổi nên có khó khăn cho việc là tụ tập, cho nên Đức Phật có khuyên là: xin phụ vương cứ ở nhà rồi giữ tam quy, ngũ giới, thập thiện là đủ. Thế mà sau những lần Thuyết Pháp đó thì chúng ta biết rằng, vua Tịnh Phạn vương chứng được sơ quả. Đến khi thân phụ của Ngài chuẩn bị lâm chung, nghe tin thân Phụ ốm và sắp qua đời thì Đức Phật lập tức về và đến bên cạnh giường bệnh, Đức Phật đã thuyết pháp cho thân phụ và đức Phật có khuyên thân phụ niệm Phật để cầu sinh Tây Phương. Và đức Phật đã chỉ dẫn cho thân phụ của Ngài thực hiện cái việc đó ngay trong thời gian cuối cùng của cuộc đời. Đức Phật đã nắm tay thân thụ để mà thuyết pháp, để mà khai thị, để mà hướng dẫn thân phụ tu tập. Và nhờ đó thân phụ của Ngài đã đạt đến chỗ giải thoát. Rõ ràng đích thân thân mẫu ngài phải tu, đích thân thân phụ phải tu. Nếu mà không tu thì đức Phật có hồi hướng thế nào thì nhờ vào Phúc Đức ấy cũng chỉ sinh lên cõi trời là cao nhất, không có đạt đến giải thoát được. Cho nên chúng ta biết rằng, chúng ta có hiếu cách nào đi chăng nữa mà không hướng dẫn cha mẹ tu tập thì chúng ta có trọn đời dâng cơm, rót nước làm cho cha mẹ vật chất và tinh thần đầy đủ như đã nói ở trên, thì cha mẹ chúng ta vẫn y nhiên ở trong sinh tử luân hồi mà chưa có ra được. Cho nên chư Tổ có nói một câu- nếu cha mẹ chưa sinh về Tịnh Độ thì hiếu đạo chưa tròn, hoặc nói theo cách của đức Phật nếu cha mẹ chưa được giải thoát vào cõi niết bàn an vui thì đạo hiếu chưa được thực hiện.
Cho nên trong Phật giáo của Bắc truyền có ba bộ kinh về gọi là Hiếu Kinh. Kinh Vu Lan là nói đến cái hiếu đạo của hàng Thanh Văn. Kinh Địa Tạng là nói hiếu đạo của hàng Bồ Tát, còn Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, đấy mới là phương tiện rốt ráo hiếu đạo của chư Phật, và đức Phật đã nói về cách thực hiện báo hiếu của Ngài đó là phải phát Bồ đề tâm, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh, tu hành thành Phật và cũng muốn cho cha mẹ cũng phải thành Phật thì đấy mới là rốt ráo hiếu đạo của chư Phật. Còn chúng ta biết rằng- Bồ Tát Địa Tạng có thân mẫu của Ngài sau này cũng chứng đắc được quả vị Bồ Tát, tức là giải thoát Bồ Tát. Nhưng ngài Mục Kiền Liên có độ cho cha mẹ ra khỏi địa ngục, sinh lên cõi trời thôi, cõi trời thì vẫn nằm trong lục đạo. Cho nên ba cách báo hiếu- của hàng Thanh Văn thì năng lực cao nhất chỉ lên đến cõi trời; Bồ Tát thì có thể cho độ cho cha mẹ thành Bồ Tá; nhưng Phật mới có thể độ cho cha mẹ thành Phật – đấy mới là rốt ráo Hiếu đạo, cho nên chư tổ Tịnh Độ mới nói là nếu mà chúng ta chưa làm cho cha mẹ chúng ta vãng sinh tịnh độ thì rõ ràng cha mẹ chúng ta vẫn còn trong sinh tử luân hồi. Dù chúng ta có hiếu thế nào thì cha mẹ chúng ta vẫn y nguyên rơi vào trong đau khổ, chưa có giải thoát rốt ráo. Và chỉ có sinh về định độ thì tương lai thành Phật và đấy là giải thoát rốt ráo. Còn nếu mà hướng dẫn cha mẹ tu tập thì ít nhất cũng phải ra được khỏi tam giới, mà muốn cho cha mẹ ra khỏi tam giới thì chúng ta phải ra khỏi tam giới trước, cũng giống như là tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng, muốn đội được giao cha mẹ thì bản thân phải phải tu tập đến Địa Vị Bồ Tát thì mới độ cho cha mẹ ra khỏi địa ngục. Từ trong địa ngục đó mới hướng dẫn cha mẹ tu tập để tương lai trở thành Bồ Tát Giải Thoát. Nếu chúng ta báo hiếu rốt ráo thì phải đạt như vậy mới rốt ráo. Cho nên, chúng ta phải trở thành quyến thuộc Bồ Đề, nói như các tổ phải làm thế nào cả nhà đều về được Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, cả nhà đều hội họp ở đó, trở thành quyến thuộc của Đức Phật A Di Đà thì hiếu đạo trọn vẹn.
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 2 : VU LAN BỒN
ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 24.04.2022
GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI



