LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 3 : VÔ THƯỜNG

VÔ THƯỜNG- PHẦN 1

Hôm nay chúng ta sang bài mới là bài Vô thường. Xin mời vị nào phát tâm đọc bài. 

Kinh văn:

A. MỞ ÐỀ 

Lòng tham lam của con người ôm ấp bám víu mãi mãi vào sự vật.

Chúng ta, đã là chúng sinh, thì ít nhiều đều có tham vọng. Lòng tham vọng ấy bám víu chặt chẽ vào sự vật mà chúng ta đã cấu tạo, nắm bắt được. Chúng ta chỉ buông thả chúng ra, sau khi trút hơi thở cuối cùng. Nói cho đúng, không phải đến phút cuối cùng chúng ta mới chịu buông thả mọi vật; chúng ta vẫn cứ muốn nắm giữ chúng mãi, nhưng chính chúng đã rời bỏ chúng ta mà đi. Chúng ta đã bất lực, không còn đủ hơi sức để nắm giữ chúng nữa, nên đành buông xuôi tay để chúng tuôn đi, chứ nếu còn hơi sức, chúng ta vẫn còn muốn nắm lại và giam giữ một cách tuyệt vọng những gì đã nắm được. Suốt đời, chúng ta vẫn lặp đi lặp lại mãi cái cử chỉ nắm bắt, giữ gìn ấy. Và suốt đời biết bao nhiêu lần chúng ta đã đau khổ, thất vọng, vì mọi sự vật ở đời không bao giờ chiều theo ý muốn của chúng ta mà chịu ở yên một chỗ. Mọi sự vật đều luôn luôn biến chuyển, đổi thay, nay đây mai đó, như một anh chàng lãng tử, như một dòng sông, như một đám mây, như một vó ngựa! Thời gian trôi qua như thế nào, thì mọi vật cũng trôi qua như thế ấy. Nói theo danh từ nhà Phật, thì sự biến chuyển, đổi thay ấy là luật Vô thường.

Giảng giải chi tiết:

Hôm nay chúng ta học Bài thứ ba có nhan đề là Vô thường, đây là một trong những phần hệ thống giáo lý quan trọng nhất xuyên suốt trong toàn bộ giáo pháp của Đức Phật, đó chính là giáo lý về vô thường. Vô Thường là cái gì, vô tức là không, thường là thường hằng, tức là vạn pháp luôn luôn biến đổi và không có cái gì đứng yên cả. Nó luôn luôn thay đổi và do cái sự thay đổi ấy mà khi người ta chấp vào nó, một khi nó bị thay đổi thì dẫn đến đau khổ. Do đó giáo lý vô thường xuất phát từ cái nhìn thực tế của Đức Phật, về sự vật, hiện tượng, về con người và về vạn pháp. Và cũng chính từ nhận thức đó Đức Phật mới thấy rằng mọi vấn đề đau đều sinh ra từ vấn đề này. Cái mà người ta đau khổ, cái người ta thất bại, cái người ta sinh ra mọi cái thứ phiền não đều do từ vấn đề là người ta không nhận thức đúng về bản chất của sự thật hiện tượng đó là sự vô thường. Cho nên người ta có sự bám víu, người ta cứ níu kéo, vướng chặt vào đó, bản thân chúng ta cũng níu kéo chặt vào chính bản thân của mình, không ai muốn già nhưng mà cái sự già nó vẫn đến, không ai muốn chết, cái chết nó vẫn đến, khi đối diện với già chết rồi chúng ta vẫn cứ muốn bám víu, đến hơi thở cuối cùng vẫn còn muốn bám víu, không muốn rời tay khỏi. Cho nên, quan niệm ở thế gian là cứ còn nước còn tát, kể cả biết chắc chắn sẽ chết nhưng vẫn phải đưa đi bệnh viện để chữa, chữa cho đến tận kiệt cùng thì thôi, bỏ phí rất nhiều tiền của này khác vào việc mà biết chắc chắn là có làm cũng không giải quyết được mà vẫn làm. Đấy chính là một cái mà chúng ta hiểu sai về vấn đề của vô thường cho nó dẫn đến như vậy.  Thế rồi cho đến nhà cửa, tài sản, vạn vật, thịnh suy bĩ thái. Ở đời, mọi sự đau khổ của chúng ta đều không nhận thức đúng bản chất của nó và bản chất của sự vật hiện tượng. Đức Phật chính là người đã chứng ngộ điều này. Giáo lý vô thường này sẽ liên hệ đến hàng loạt những vấn đề trong Phật học, đó là duyên khởi. Vì vô thường, cho nên là mới đưa ra được nhận thức đúng đắn của sự vô thường ấy, nó là do nhân duyên sinh. Vì cái này có cho nên cái kia có, mà cái này nó mất đi thì cái kia nó mất đi. Cho nên nó mới dẫn đến chuyện nay còn mai mất, mà sự nay còn mai mất, cái biến chuyển của vạn vật đó chính là lý nhân duyên. Mà do lý nhân duyên ấy thì vô thường. Cho nên ai bám víu thì sinh khổ. Do cái bản chất của vô thường và khổ ấy thì nó mới dẫn đến giáo lý vô ngã. Lý vô ngã là từ trong chỗ này, cho nên từ một giáo lý vô thường này, tôi mới nói nó là một cái phần nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ giáo lý của Đức Phật. Xét ra, từ con người cho đến luân hồi, giáo lý của nghiệp, tứ đế, thập nhị nhân duyên… nó đều xuất phát từ nền tảng nhận thức này. Cho nên là đối với bài học này là chúng tôi xin lưu ý là tất cả các phật tử chúng ta là phải học và suy nghĩ rất là kỹ, và cái này là phải chiêm nghiệm hàng ngày đấy để chúng ta thấy được thật sự cái vô thường nó xảy ra đối với thân chúng ta, đối với tâm chúng ta, đối với vạn vật xung quanh chúng ta, nó đã từng sát ra một, từng giây, từng phút một. Người nào mà thấy được vô thường là sẽ thấy được Pháp. Mà các vị thấy được Pháp, tức là các vị sẽ thấy được Phật. Cái đó là cái giác ngộ hay không chính là ở cái chỗ này. 
Nói đến Lý thì chúng ta học chúng ta có thể hiểu, ôi đời là vô thường đấy mà. Nhưng mà chúng ta đấy là chúng ta nói vô thường với người ta thôi, chứ bản thân mình vô thường mình không có nhận thức được. Tôi nói một cái câu chuyện đơn giản thế này thôi để mở đề cho các vị, ví dụ như là cô bạn hàng xóm chồng chết chẳng hạn. Thế rồi một cái cô bạn này đến là an ủi thôi em ạ, mà nó vô thường đấy mà, chúng ta học Phật đừng có đau khổ nữa. 
Chúng ta khuyên người ta khác như thế thì được. Nói như thế là đúng phải không? Nhưng mà đánh đùng cái vài hôm sau nữa là chồng mình chết, mình có nhận thức được vô thường không? Mình có khổ đau không? Lúc bấy giờ là mình còn khổ đau hơn cả người ta. Lúc bấy giờ mình có có ngộ được lý vô thường không? Hoàn toàn không? Vẫn đau khổ bình thường. Mà nếu mà chúng ta còn đau khổ trong cái chỗ đó thì rõ ràng chúng ta không nhận được cái lý vô thường này, không hiểu về vô thường nên chúng ta mới đau khổ. Còn nếu mà chúng ta biết nó là vô thường, chúng ta sẽ không mấy không đau khổ. Cho nên là tôi mới nói là nó quan trọng là quan trọng ở cái chỗ mà chúng ta chiêm nghiệm để thực hành đấy, chứ không phải là chúng ta chỉ nhận thức theo cái phần lý thuyết này đâu.  Xin mời các vị chúng ta đi vào cái phần nội dung chính của bài này.  Ở đây như trên đã nói là hai cái vô thường là chữ Hán, vô là không, thường là thường Hằng là vĩnh cựu. Chúng ta thì luôn luôn muốn cái gì nó cũng thường hằng vĩnh cửu, nhưng mà không có cái gì thường Hằng vĩnh cửu cả, cho nên là ở đời muốn có một cái sự thường hằng vĩnh cửu. Cho cái cái sự sống không thường hằng được thì người ta nghĩ đến cái chữ sự chết là vĩnh hằng, cho nên là có cái công viên vĩnh hằng. Nhưng mà không có cái sự vững hằng ấy, cái đó chỉ là tự đánh lừa nhau mà thôi. Bản chất của tất cả vạn vật không có gì vĩnh hằng, không có một thế giới vĩnh hằng để cho người ta chết, để về đó để ở, và đó là một quan niệm sai lầm. Cho nên thế giới thì nó có cái quy luật là thành trụ hoại và không. Cho nên thế giới này nó sẽ hình thành, nó sẽ tồn tại lại, rồi nó sẽ hủy hoại và đến cuối cùng ngay cả lớn như là cái thế giới này nó cũng sẽ bị hủy hoại, đến cái khi là nó tan ra thành các cái hạt bụi, thành các nguyên tử phân tử, nó không bao giờ tồn tại mãi và đó là một điều chắc chắn. 
Thứ hai nữa vạn vật, tức là các cái vật chất của chúng ta này, ví dụ như những cái thứ này thì nó theo cái cái quy luật là sinh trụ dị và diệt. Nó sinh ra rồi nó cũng tồn tại trong một thời gian, rồi nó biến đổi là dị và cuối cùng nó cũng sẽ tan loại mất. Cơ thể vật chất của chúng ta thì nó có bốn cái quy luật, bốn cái giai đoạn mà chúng ta thông thường chúng ta gọi là sinh già, bệnh và chết. Và tất cả cái quy luật của vật chất, của con người, của vạn vật cho đến vũ trụ đều nằm trong cái sự là luôn luôn biến đổi. Và nó biến đổi trong từng sát na, trong từng khoảng thời gian nhất định và không có một cái gì tồn tại vĩnh viễn. Đó chính là một quy luật, mà cái quy luật này tôi đã nói là chân lý, và quy luật nó tồn tại một cách độc lập, nó tự nhiên vốn có. Dù Phật có ra đời hay không ra đời thì những quy luật này nó vẫn vận hành. Chúng ta có tin Phật hay không tin Phật thì các quy luật này nó vẫn tồn tại, không phải là Phật ra đời mới có cái quy luật này phải không? Không phải là chúng ta theo Phật thì nó mới bị cái quy luật về chi phối, mà còn những cái người mà không theo Phật thì không bị quy luật này chi phối không? Dù có theo Phật hay không theo Phật, Phật có ra đời không ra đời thì quy luật nó vẫn cứ tồn tại, chân lý vẫn tồn tại một cách tự nhiên. Và đức Phật chỉ là cái người chứng ngộ hay chúng ta gọi là khám phá ra. Và từ cái khám phá của Đức Phật thì mới thấy được cái bản chất của nó và chỉ dạy cho chúng ta biết rõ, và làm thế nào để chúng ta sống một cách bình an trong cái sự vô thường ấy mà thôi. Đấy chính là vấn đề mà Đức Phật muốn nhắc chúng ta nhận thức một cái căn bản nhất ở trong cuộc sống là con người và thế giới. Bởi vì cái nhận thức của Phật học là nó ở trên hai phương diện là nhân sinh và vũ trụ. Nhân sinh là con người và cuộc sống của con người hay là các loài động vật thì cũng gọi là nhân sinh thôi. Cái vũ trụ tức là hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Và nhân sinh và vũ trụ là vô thường, tức là không có thường hằng. Và chính cái vô thường đó nó sẽ bác bỏ được hai cái quan niệm mà xưa nay người ta nói là có một cái cuộc sống vĩnh cửu, hay gọi là gọi là có một cái sự thường hằng, hoặc là có một quan điểm ngược lại một cái thường hằng ấy là là đoạn diệt, cho nên là thế gian nó có hai cái quan điểm chấp. Chấp thường và chấp đoạn. Chấp thường, tức là người ta cho có một cái gì đó nó sẽ thường hằng và người ta luôn luôn mong muốn đi tìm cái sự thường hằng đó. Vì thế nó mới có các cái tôn giáo mới, có các cái Đạo người ta mới cầu trường sinh bất lão, người ta muốn được cuộc sống nó kéo dài mãi, cho nên là cơ kia nói là bành tổ sống 800 năm vẫn còn phải sinh tử luân hồi, nhưng mà đã là ai thấy đó là Bành Tổ sống 800 năm đấy, nó chỉ là truyền thuyết thôi rồi. Các vị mà có tu tiên thì cũng vẫn là không phải là trường sinh bất lão, cho đến dù sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, ngoại đạo họ tu tứ thiền bát định là để kéo dài cái tuổi thọ ở trên các cái cõi trời. Nhưng mà rồi đến cái lúc mà tuổi thọ nó hết, nó chấm dứt thì nó vẫn nằm ở trong quy luật của vô thường, nó vẫn trở lại sinh diệt bởi vì nó dài quá thì người ta tưởng nó là vĩnh cửu như mà không phải. Ví dụ như Trái Đất này ai cũng nghĩ là nó vĩnh cửu, bởi vì cái tuổi thọ của nó rất dài, đời người chúng ta không nhìn thấy được nhưng mà nếu xét trong từng sát na thì nó vẫn thay đổi, vẫn thay đổi, cho nên là không có cái gì vĩnh cửu. Một cái loại thứ hai nữa là cho cái quan niệm là hoại diệt và nó không còn cái gì cả. Đức Phật không cho như vậy và cho rằng cái quy luật vô thường là nó là cái sự biến đổi, chuyển biến từ cái này sang cái kia. Cho nên là sau này mà các nhà khoa học và đặc biệt những các nhà vật lý mà phát hiện ra cái quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng ấy, thì thực ra cái quy luật này là đức Phật đã đã nói rồi, và sau này họ chỉ chứng minh làm rõ nó thôi. Cái mà gọi là không sinh ra cũng không mất đi và chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác thì đấy chính là quy luật của vô thường, tức là không có cái gì tồn tại mãi. Nói sự chuyển hóa từ cái này sang cái khác. Đức Phật thì nói là cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này mất thì cái kia mất, cái này diệt thì cái kia diệt, tức là trong cái sự sinh diệt nó thay đổi một cách liên tục và nó chuyển hóa lẫn nhau và không có cái gì là mất đi, cũng không có gì là tồn tại mãi mãi. Đấy chính là cái điều mà chúng ta phải nhận thức trong cái cái định nghĩa vô thường này. 
Chúng ta sang nội dung nói về con người, thân vô thường. Các vị đọc bài.

Kinh văn:

II. THÂN VÔ THƯỜNG 

“Thân tôi mạnh khỏe luôn, trẻ đẹp mãi, và đời tôi là cả một bài thơ…” Ấy là quan niệm nông nỗi của một số nam nữ thanh niên, quá yêu chuộng thân thể họ trẻ mãi, hay nếu có già, thì cũng còn lâu lắm, không ngờ rằng nó già, nó chết, từng giây từng phút. Câu thơ sau đây của người xưa thật đã nói lên được sự thay đổi mau chóng của thân ta:

“Quân bất kiến cao đường minh cảnh bi bạch phát! Triêu như thanh ti, mộ như tuyết?”

(Anh không thấy cha già soi gương buồng tóc bạc! Sớm còn như tơ xanh, tối đã trắng như tuyết)

Khoa học đã chứng minh rằng, trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi ấy làm cho thân thể chóng lớn, chóng già và chóng chết. Thân năm trước không phải thân năm nay, thân ban mai không phải thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có chết. Sau đây là một câu chuyện rất có ý nghĩa để chứng minh sự vô thường của thân xác:

Một người bộ hành lỡ đường vào trọ trong một ngôi nhà bỏ hoang. Ðêm đến, anh ấy thấy một con quỷ tóc xanh, vác một cái thây ma mới chết vào, định xé xác ra ăn. Bỗng một con quỷ khác, tóc đỏ, xô cửa bước vào. Hai con quỷ tranh nhau cái xác chết, con nào cũng nói của mình bắt được trước. Chúng sắp xăn tay áo đánh giết nhau, để giành cái xác. Bỗng chúng nhìn thấy anh chàng bộ hành đang nằm run sợ trong góc phòng; chúng vội vã kéo anh ta ra làm trọng tài, hỏi xem trong hai chúng, ai là kẻ đáng làm chủ cái xác. Anh bộ hành sợ hãi quá, nhưng cứ tình thật nói rằng: cái xác thuộc về con quỷ tóc xanh vì chính anh ta thấy nó mang xác vào trước. Con quỷ tóc xanh được xác, mừng rỡ cảm ơn rối rít anh bộ hành; nhưng con quỷ tóc đỏ mất miếng mồi ngon, tức giận lôi đầu anh ta ra quyết ăn tươi nuốt sống cho hả giận. Nó đè anh ta xuống, rứt một cánh tay bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến… Con quỷ tóc xanh thấy thương tình anh bộ hành và để tỏ lòng tri ân, rứt cánh tay của cái xác chết lắp vào cho anh ta. Con quỷ tóc đỏ lại rứt cánh tay kia của anh bộ hành ăn tiếp; và con quỷ tóc xanh chắp tay của xác chết vào cho anh ta. Cứ như thế, hễ con quỷ tóc đỏ rứt một phần nào trong thân thể anh bộ hành để ăn, thì con quỷ tóc xanh lại lấy một phần của thây ma điền vào cho thân anh ta…Sau khi ăn hết cả thân thể của anh bộ hành, con quỷ chùi miệng đầy máu me, rồi bỏ ra đi. Con quỷ tóc xanh cũng đi theo.

Anh bộ hành bàng hoàng như vừa tỉnh một cơn ác mộng và cứ phân vân tự hỏi: không biết cái thân hiện tại anh đang mang đó là của anh hay của ai?

Câu chuyện trên chứng minh cho chúng ta thấy từ khi sanh cho đến khi chết, thân ta đã không biết bao lần thay đổi; và cái xác khi người ta đặt vào quan tài, thật không còn gì giống với cái thân khi mới sơ sinh.

Dòng nước hôm qua của con sông Ðồng Nai chẳng hạn, ngó bề ngoài thì không khác gì dòng nước hôm nay; nhưng nước hôm qua, bây giờ có lẽ đã hòa với nước mặn ở ngoài đại dương và nước hôm nay chính là nước khác ở nguồn mới chảy về đây. Thân người cũng vậy, “hằng chuyển như bọc lưu” (chảy luôn như nước lũ).

Nhưng khổ thay! Có phải nó thay một cái này để đổi lấy một cái khác, giống y như cái trước đâu! Một tế bào nầy mất đi, một tế bào khác thế lại, nhưng tế bào trước trẻ hơn tế bào sau; tế bào sau già hơn tế bào vừa được kế tiếp… Và cứ như thế mà thân người đi từ trẻ đến già, từ sống đến chết!

Ðức Phật, lúc còn là một Thái tử, đã than với bà Da Du trong cung vua, khi nghĩ đến vô thường của thân người.

“…Chúng ta sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! mắt trong của em rồi sẽ mờ đục! Môi đỏ của em rồi sẽ úa màu!… Ta nghe trong ta, trong em và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá của búa thời gian, tất cả những gì quý báu của đời người…chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương!”.

Trí huệ thay! Con người cao sang và đang trẻ đẹp, bên cạnh lại có vợ hiền sớm hôm hầu hạ, thế mà vẫn đủ sáng suốt, để nhìn thấy luật vô thường, đập tan cái gì gọi là cao sang, tươi đẹp của đời người! Những lời thống thiết ấy, chẳng những đã cảnh tỉnh công chúa Da Du, mà còn đánh thức những ai còn say đắm trong cảnh đời giả tạm, cảnh sanh, già, bệnh, chết, là hiện thân của luật vô thường. Có thân thì phải chịu công lệ sanh già bệnh chết, không thể tồn tại mãi được. Ðức Lão Tử cũng đã nhận thấy thân là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau, nên đã thốt ra câu:

“Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, 

Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?”

(Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân,

Nếu ta không thân thì đâu khổ gì?)

Thân là vô thường, thế mà lắm người vì muốn trau dồi, bồi bổ, cung phụng xác thân đến nỗi gây biết bao tội ác ghê gớm! Vì muốn được thích khẩu, bổ thân, mà lắm người đành tay giết hại những con vật yếu hèn và hành hình những con vật vô tội trước khi chết một cách rùng rợn. Ðọc lịch sử, nghe Tần Thủy Hoàng ăn óc khỉ sống, ta đã cảm thông được nỗi đau đớn những con vật bị giết, thế mà người dự tiệc vẫn vui cười sung sướng, không đoái hoài đến tiếng rên xiết, kêu la, vùng vẫy của chúng, thì thật là độc ác đến chừng nào! Lòng trắc ẩn của người ở đâu? Hỡi ôi! Hung ác và thâm hiểm thay, lòng dạ của con người!

Vì tham lam làm vẩn đục, tối tăm lương tri, nên con người không thấy rõ được lý vô thường của thân xác và mới nỡ tâm làm điều tàn ác như thế !

III. TÂM VÔ THƯỜNG 

Thân đã vô thường, nhưng còn tâm niệm có thường không? Tâm niệm cũng âm thầm dời đổi, lại có phần mau lẹ và vi tế hơn, nếu chúng ta không nhìn sâu vào, ắt khó mà thấy được.

Tâm niệm chúng ta thay đổi trong từng phút giây, theo với ngoại cảnh: chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước ta nhớ chuyện nầy, phút sau ta nghĩ chuyện khác. Hôm qua ta tinh tiến tu hành, hôm nay đã ưu phiền thối chuyển. Thật đúng như đức Phật đã nói:

“Tâm người như vượn chuyền cây, 

Như ngựa rông nơi đồng nội…”

Tâm niệm ta sinh diệt trong từng sát na; và chính vì nó sinh diệt mau lẹ như thế, nên ta có cảm tưởng như nó không thay đổi gì cả. Ðối với một đứa trẻ con, nếu chúng ta bảo rằng những hình ảnh cử động in như thật trên màn bạc, là do sự tiếp nối những tấm phim, ảnh hiện lên rồi biến mất, để nhường chỗ cho những tấm ảnh khác, trước ngọn đèn chiếu… nếu ta bảo như thế với một đứa bé, chắc nó không tin, vì nó chưa hiểu được cái công dụng của tốc lực. Cũng như thế đó, tâm ta được cấu tạo bởi từng niệm sinh diệt, nhưng vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên ta cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái ta phút trước phải đâu là cái ta phút nầy? Và cái ta phút nầy đâu còn là cái ta phút sau? Vậy cái ta nào là cái ta thật? Cái ta phút trước, cái ta phút nầy hay cái ta phút sau? Một nhà thi sĩ đã hỏi một câu có vẻ ngớ ngẩn nhưng nghĩ kỹ thật là vô cùng sâu sắc:

“Ai bảo giùm: ta có ta không?”

Cái ta (hay cái tâm cũng thế) vô thường tạm bợ, giả tạo như thế, thế mà người đời cứ cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ, bám víu vào nó, nhơn danh nó để tham lam, vơ vét tài sản, danh lợi ở chung quanh, và dù có dẫm đạp lên hạnh phúc của kẻ khác, gây bao đau thương cho người đồng loại, cũng mặc! Thật mê mờ lắm thay !

Giảng giải chi tiết:

Trong cái nội dung của bài này thì chúng ta sẽ nghiên cứu cái vô thường trên ba cái phương diện.  Một là con người chúng ta là có hai cái phần thân và tâm, trước hết là nghiên cứu về cái thân vật chất, rồi nghiên cứu về cái tâm. Thân vô thường, tâm vô thường và cuối cùng là nghiên cứu đến hoàn cảnh thế giới vạn vật này cũng là vô thường. Vô Thường ba cái phương diện. Ở đây thì sở dĩ nói đến cái thân vô thường, bởi vì thân của chúng ta là cái thân vật chất và con người chúng ta thì nó là con người của vật chất và con người của tinh thần. Nói theo ngôn ngữ bây giờ thì nó là con người vật lý. Vật lý ở đây trong Phật Pháp, đức Phật nói là thân của chúng ta nó gồm có bốn cái yếu tố nó cấu tạo thành, là yếu tố về địa đại, thủy đại, phong đại và hỏa đại. Những cái phần vật chất mà ở trên thân của chúng ta mà nó thuộc về cái phần chất rắn ấy, thịt này, xương này vân vân, nó thuộc về địa địa đại. Hơi thở, sự chuyển động trong thân các khoang rỗng ở trong thân, nó thuộc về phong đại phong và không đấy. Thế rồi các phần nước và dịch máu mủ, nó thuộc về thủy. Và cái sức nóng trong cơ thể của chúng ta nó thuộc về hỏa đại. Nếu mà mà thân của một con người mà không vô thường thì không bao giờ chúng ta lớn lên được. Thì vĩnh viễn chúng ta muôn đời là chúng ta chỉ là đứa trẻ vừa mới sinh ra thôi, vì nó vô thường cho nên chúng ta mới lớn lên được. Nếu mà chúng ta nghĩ rằng là mọi vật nó thường hằng thì bố mẹ sinh ra thế nào thì chúng ta vẫn sẽ giữ nguyên như thế, và cái đó chính là nó là cố định, là vĩnh hằng. Nhưng vì nó không thể vĩnh hằng theo cái cách ấy được cho nên nó phải thay đổi. Và vì thay đổi cho nên là chúng ta sẽ phải có các cái giai đoạn là trẻ thơ, rồi đến thành niên, rồi cho đến là lão niên rồi, trung niên rồi lão niên rồi cho đến già đến chết. Đó là một quy luật. Mặc dù là chúng ta vẫn mơ màng, là hiểu rằng là chúng ta sẽ có những giai đoạn đấy, nhưng mà trong cái tâm chúng ta là không chấp nhận nó và chúng ta muốn luôn tìm cách líu kéo, tức là làm cho mình làm thế nào cho mình được trẻ lâu, làm thế nào cho mình được đẹp lâu, làm cho mình thế nào được khỏe lâu và người ta tìm mọi cách hàng ngày để người ta chăm sóc cái thân này để làm cho nó đấy, làm thế nào cho tôi đẹp mãi, làm thế nào cho tôi trẻ mãi, làm cho thế nào để tôi không già, không bệnh và không chết. Và cái đó thì không bao giờ làm được, chúng ta dù có có cách nào cũng không không thể làm, không được. Đức Phật cũng không có làm cái chuyện đó, cũng là cái chuyện đó. Bản thân Đức Phật là thân cũng già cỗi, phải không? Đến lúc 80 tuổi, Ngài còn bảo thân ta già rệu rạo giống như là da thịt đã nhăn nheo, các cái sắc nó không còn có tươi nhuận nữa, giống như cái cỗ xe rệu rạo đến cái ngày nó phải sụp đổ. Tức là không có một cái khả năng nào để có thể duy trì và thay đổi cái chuyện đó được. Và đấy chính là cái thân cô thường. 
Vì thế cái chúng ta thì không có nhìn kỹ cho nên là không rõ. Nhưng mà nếu mà nhìn sâu vào được các bậc tu chứng thì thì đúng như là chân lý. Nói này là chỉ một sát na trước chúng ta là một con người, một sát na sau là một con người khác. Thân chúng ta nó thay đổi trong từng sát na, nhưng mà chúng ta thì một ngày là cũng không không phát hiện được cái sự khác của thân thể. Lúc trẻ thì nó không thấy khác đâu, nhưng mà nếu mà các vị nào mà cao cao tuổi một chút là sáng sẽ thấy khác, trưa thấy khác, nhiều khi tối thấy khác, chiều là thấy khác, ngày hôm sau là thấy khác, mỗi ngày là thấy cái vô thường nó đến trong từng sát na.  Cho nên mới nói là một cái câu chuyện là không có ai trong một đời người mà hai lần đi qua được một dòng sông, cũng không ai một đời người mà hai lần uống nước một dòng sông. Nói như thế là người ta không chấp nhận. Bởi vì là bây giờ vốc nước lên uống, chốc nữa vốc nước lên uống thì bên cho rằng là vẫn uống nước cái dòng sông đó. Nhưng mà Đức Phật nói rằng không có ai một đời người mà có thể hai lần đi qua một dòng sông và cũng không có ai một đời người có thể hai lần uống nước ở trong một dòng sông. Cái này hoàn toàn đúng. Bởi vì khi mà chúng ta vốc một cái vốc nước ở dòng sông lên để mà uống, thì cái dòng nước nó đã chảy liên tục, cái dòng nước mà chúng ta khi nó vốc lên, ngay cái thời điểm đó mà khi chúng ta chưa kịp nâng cái nước lên để uống thì cái dòng nước ấy nó đã trôi đi rồi. Và chúng ta vốc cái vốc nước sau thì nó không phải là cái vốc nước của cái vốc nước trước nữa. Cho nên là nói rằng là một đời người không thể hai lần uống nước một dòng sông là như vậy. Thế hoặc giả là một đời người là không thể hai lần đi qua dòng sông, khi mà chúng ta lội qua một dòng sông chân này chúng ta nắm xuống thì nước nó đã trải qua, mà đặt chân kia xuống thì cái dòng nước ấy nó đã lại tiếp tục chảy và trôi chảy mãi mãi bất tận. Vì thế mới nói rằng là một sát na này, thân chúng ta là thế này, nhưng một sát na sau chúng ta là thế khác, đứa trẻ một tuổi với cái đứa trẻ hai tuổi là không phải là một, nhưng nó không phải là hai, bởi vì là cái gốc của cái đứa trẻ một tuổi là để nó tạo thành cái đứa trẻ hai tuổi, nhưng mà thân thể của cái đứa trẻ một tuổi với cái thân thể đứa trẻ lên tuổi thứ hai là hoàn toàn khác nhau đấy. Nói trong khoảng thời gian một năm, nhưng mà nói trong thời gian khoảng một sát na, một sát na trước nó khác. Bởi vì như đã nói ở trong ở trên ấy, là cái tế bào của chúng ta ở trong thân tâm tứ đại này nó vận hành liên tục, nó không có dừng nghỉ, nếu nó dừng nghỉ là thân thể chúng ta chết ngay. Cho nên chúng ta cứ muốn là chúng ta ra trẻ mãi, rồi chúng ta tồn tại vĩnh viễn là chuyện đó là một cái chuyện gọi là hoang đường hoang tưởng và cái đó không bao giờ xảy ra. Nếu thân thể chúng ta đứng lại mà nó không hoạt động nữa, tức là nó không vô thường, tức là nó thì nó không hoạt động đấy thì nó chết. Thế nên là thân thể là cái sự vận hành liên tục, mà đã vận hành liên tục tức là vô thường nó xảy ra liên tục. Do chúng ta không nhận thức được như vậy. Cho nên là chúng ta mới tìm cách là làm thế nào để níu kéo là cái cái thân thể chúng ta nó trẻ mãi, nó khỏe mãi, nó tốt đẹp mãi. Thế nên là hàng ngày chúng ta phải tìm cách, mà mất rất nhiều thời gian đấy để chăm sóc, chăm sóc nó, nhất là những cái người mà ưa về sắc đẹp nà các thứ, là buổi sáng khi mất cả tiếng đồng hồ để điểm làm đẹp, bôi phấn, bôi son, rồi mất hàng tiếng đồng hồ để chọn quần áo để mặc. Nhưng mà tất cả những cái đó nó không giúp cho họ có cuộc sống được hạnh phúc. Họ cứ nghĩ rằng là họ thỏa mãn trong cái chuyện là mặc đẹp một chút, làm đẹp một chút là họ hạnh phúc. Nhưng mà cái hạnh phúc đó nó hết sức giả tạo. Hôm nay là cái người mà chăm chăm sóc sắc đẹp này mà nhìn thấy một cái vết nhăn ở trên mặt, trên má là mai là đau khổ lắm, bởi vì họ không chấp nhận cái vô thường, cho nên họ mới đau khổ, chứ còn cái người mà đã hiểu rõ được cái lý vô thường là con người ta phải già, phải phải bệnh, mà nó nhăn là chuyện đương nhiên thì việc gì phải khổ, việc gì phải bận về cái chuyện đó. Cái mà Đức Phật muốn cho chúng ta biết rằng là cái bản chất nó là vô thường, và chúng ta hiểu được như thế thì chúng ta sống chung với nó được, và khi mọi vấn đề vô thường đã xảy ra với thân chúng ta, hôm nay nó yếu, nó bệnh hoặc là nó già đi, hoặc là lão đi này khác các thứ thì tất cả những cái đó chúng ta đã nhận thức được thì nó sẽ không đau khổ. Vì chúng ta không nhận thức được vô thường, cho nên là chúng ta chấp vào thân này, rồi luôn muốn làm đẹp người này khác. Thấy hôm nay có một cái tóc bạc ở trên đầu là buồn, phải không? Mai thấy mặt có nét nhăn tí là buồn rồi. Quần áo này khác các thứ sửa sang, chính là vì chúng ta không nhận thức được bản chất cái vô thường và muốn luôn luôn níu kéo là đẹp mãi, tốt mãi, trẻ mãi, khỏe mãi. Và đó là những cái nó dẫn đến cái mọi cái sự gọi là bất an trong cuộc sống, mọi cái mà không được hạnh phúc trong cuộc sống, mọi cái mà không được bình an trong cuộc sống là nó từ cái nhận thức này mà ra. Khi mà có một cái sự kiện gì xảy ra đối với thân chúng ta, thì chúng ta dẫn đến đau khổ, vì chúng ta quá chấp về bản thân của mình. Cái điều quan trọng là chúng ta phải quán chiếu cái thân của chúng ta hàng ngày, biết được bản chất của nó, bởi vì nó có vận hành liên tục, tức là vô thường liên tục ấy thì chúng ta mới tồn tại. Nếu mà nó không vận hành nữa, tức là nó không có vận động nữa thì thân thể chúng ta sẽ bị hoại diệt. Theo quy luật của nó và cái cái sinh tử của chúng ta là nó nằm theo cái quy luật đó đã có sẵn rồi. Cho nên tôi vẫn thường nói một cái câu đấy, nó hơi khó nghe nhưng mà tôi vẫn nói là chúng ta ngay từ lúc sinh ra chúng ta đã cầm sẵn trong tay cái bản án tử hình rồi. Chỉ có cái là quỷ vô thường nó thi hành lúc nào mà thôi, cho nên là Đức Phật nói là sống ngày hôm nay không dám đảm bảo chắc ngày mai. Vì thế trong kinh Đức Phật nói là nhân bệnh vô thường xúc ư hô hấp, mạng con người ta nhanh chóng chỉ bằng một hơi thở thôi, cho nên mới nói rằng cái hơi thở này chúng ta thở vào mà không thở được ra, thì chúng ta đã qua đời khác rồi, dù cho hơi thở chúng ta tiếp tục liên tục. Xét một cách kỹ lưỡng, hơi thở này nó là một sinh mạng và hơi thở sau nó là một sinh mạng khác và cái sinh mạng của chúng ta nó gọi là tương tục ấy, nối tiếp một cách liên tục. Cho nên cái hơi thở trước là một con người và hơi thở sau cũng là một con người và hai cái con người của hơi thở trước, hơi thở sau hoàn toàn khác nhau, nó là như vậy. Nhưng mà nó có cái nền tảng của nhau, cho nên tôi mới nói là cái đứa trẻ một tuổi không phải đứa trẻ hai tuổi, nhưng bảo nó không phải là nó thì cũng không đúng, mà bảo là nó cũng không đúng phải không? Bởi vì là do có đứa trẻ một tuổi cho nên có đứa trẻ hai tuổi, nhưng mà đứa trẻ một tuổi với đứa trẻ hai tuổi không phải là một. Cho nên chúng ta nếu mà chúng ta cứ chụp ảnh, buổi sáng nó sẽ khác, buổi trưa nó khác, buổi chiều nó khác, hôm nay khác, ngày mai nó sẽ khác và cái đó là để đánh dấu những các cái sát na vô thường diễn ra trong chúng ta hàng ngày. 

Sang cái thứ hai mà chúng ta cần phải nhận thức ở đây chính là cái tâm vô thường. Nói đến tâm vô thường thì trong cái nói về thân ấy, thì trên đã nói là cái thân vật chất và đây nói là về cái tâm, tức là nói về cái cốt lõi ở bên trong. Trong ngũ uẩn thì ngày nay là nó thuộc về thụ tưởng hành và thức. 
Nó có bốn cái phương diện vô thường của cái tâm. Trong Phật Pháp đại thừa ấy thì thường nói tâm về hai phương diện. Một là cái tâm vọng tưởng, hai là cái chân tâm. Vậy thì cái tâm vô thường là cái tâm nào, nó thuộc về cái tâm vọng tưởng. Thế còn cái chân tâm thì nó không có vô thưởng. Nhưng mà có một số người hiểu lầm rằng là trong thân thể chúng ta có một cái mà nó không sinh không diệt, trong Phật Pháp Đại Thừa thì thường gọi đó là Phật tính. Cái này thì chúng tôi sẽ sẽ bàn sau. Nhưng mà trước hết nói về cái cái thân vô thường ở đây là đề cập đến bốn cái phương diện của của tâm là cảm thụ, tức là sắc, thụ. Sắc là vật chất vô thường rồi, thì cái cảm thụ của chúng ta luôn luôn vô thường.  Cái cảm thụ của chúng ta nó có buồn, vui phải không? Không buồn không vui? Cái đó là nó về ba cái phương diện gọi là lạc thụ, khổ thụ và bất khổ bất lạc thụ. Thế thì người ta bảo chưa vui mấy phút đã buồn, chưa mừng Phỉ Dạ lại luôn mạch sầu. Các cái cảm nhận của chúng ta đối với cuộc sống luôn luôn làm cho chúng ta chạy theo cái cảm xúc của mình đấy. Cái cảm thụ chính là cái cảm xúc, cảm xúc của chúng ta luôn luôn thay đổi, đang chợt vui cũng có thể lập tức cái buồn nó đến, đang chợt buồn lập tức vui nó cũng có thể đến, hoặc là nó rơi vào cái tình trạng là không buồn, không vui. Thì cái cái đó nó thay đổi liên tục, thay đổi liên tục.  Thứ hai là cái tưởng của chúng ta nó thay đổi liên tục, tưởng ở đây là gì, tưởng là những cái ấn tượng mà thông qua các cái giác quan ở bên ngoài, nó đưa các cái cái nhận thức đó vào trong tâm, cho nên là chữ Hán người ta viết chữ tưởng là viết chữ tướng trên trữ tâm, tức là các cái ấn tượng nó được đưa vào tâm, ví dụ như ấn tượng mà chúng ta thông qua con mắt mà chúng ta thấy được các cái hình sắc, đưa vào thì ngay trong sát na đó chúng ta có cái hình ảnh và có thể hình ảnh đó nó rất rõ nét, nó được ghi vào trong tâm một cách sâu sắc, lúc nào đó chúng ta có hồi tưởng lại thì các cái hình ảnh đó nó có thể hiện ra một cách rõ ràng hoặc một cách mờ mịt, hoặc là có những các cái ấn tượng đã đến mà chúng ta tâm chúng ta lơ đãng, nó không để ý thì không bao giờ nó rõ nét hơn cả được cả. Hoặc là những ấn tượng với âm thanh, có cái tiếng này nó nghe nó chói tai khó nghe phải không? Cái tiếng kia là nó êm tai dễ nghe, thì đấy nó cũng là một cái loại ấn tượng về âm thanh. Rồi ấn tượng về mùi vị, ví dụ như cái mùi này thơm, mùi này ưa, mùi này thích, mùi kia không thích, tất cả những các cái mùi đó khi mà nó có mùi thì chúng ta có cái ấn tượng về mùi, mà khi nó không có mùi thì không bao giờ chúng ta có ấn tượng về mùi. Bởi vì là đấy nó vô thường là nó ngay từ trong sát na. K cả là chúng ta ngửi rồi. Bây giờ chúng ta có muốn hồi tưởng lại cái mùi ấy thì chúng nó chỉ mờ nhạt ở trong tâm, trừ bao giờ cái mùi đó xuất hiện thì khi mà mũi chúng ta lại tiếp xúc với nó. Chúng ta biết rằng à, ví dụ như là cái cái nước hoa này là, cái hãng của nó tên là gì? Ví dụ như vậy đấy. Nó thuộc về tưởng vô thường ấy, tức là nó luôn luôn sinh diệt trong cái tâm tưởng của chúng ta. Thế rồi cái vị nó cũng thế, vị nó vô thường, khi là chúng ta lưỡi chúng ta tiếp xúc với với thức ăn thì cái vị nó xuất hiện, nhưng mà khi mà chúng ta nuốt cái thức ăn đó vào trong trong bụng rồi, lưỡi mà không còn thức ăn nữa là cái vị nó cũng cũng tiêu tan mất luôn phải không? Và lúc bấy giờ chúng ta có tưởng nó ra là cái vị này là ngọt và cay thì cái vị ở đầu nữa cũng không bao giờ xuất hiện ra được. Chúng ta chỉ có tưởng nó được ở trong tâm thôi, cái đó là vị.  Thế thì tất cả 6 căn sáu trần nó đều tạo nên cái cái cái tưởng này và khi mà căn trần nó tiếp xúc với nhau thì nó mới xuất hiện. Còn căn dần và không tiếp xúc với nhau thì nó không xuất hiện. Và như thế thì là nó vẫn luôn luôn nằm trong cái tình trạng là vô thường và không có thường hằng được cả đấy. Hành là tâm hành, cái mà chúng ta suy nghĩ để chúng ta quyết định làm một cái việc gì đó, cái đó thuộc về hành, những cái mà chúng ta gọi là sắc thụ tưởng hành và thức đấy thì là thuộc cái cái phần thứ tư đấy thì hành.
Ở đây là phải hiểu nó là tâm hành chứ không phải là hành động, cái mà nó sẽ dẫn đến hành động của chúng ta. Ví dụ như là cái đó nó dẫn đến cho chúng ta nói được, và nói ra những cái gì, rồi nó làm cho chúng ta suy nghĩ, làm cho chân tay chúng ta cử động lên xuống này, chúng ta trong một cái sát na rất là ngắn, chúng ta chỉ cần tác ý một cái thôi là tay chúng ta có thể cử động được. Chúng ta tác ý ở trong đầu cái là miệng nó nói ra liên tục và cái hành đó mới là cái mà nó biến đổi trong từng sát na đấy. Cái mà biến đổi nhanh nhất ấy trong tâm của chúng ta là nó thuộc về cái hành. Ở đây tức là tâm hành và hay nó gọi là nghiệp đấy, nó tạo nên cái nghiệp là do cái hành này.  Và cái nhận thức của chúng ta thông qua sáu căn sáu trần, nó tạo nên cái 6 thức, tức là nhãn thức, nhị thức, thân thức, thiệt thức, ý thức, kỹ thức… thì những cái này nó cũng liên tục biến đổi. Bởi vì là muốn có được nhãn thức thì mắt chúng ta phải tiếp xúc được mới sắc, mắt mà không tiếp xúc mới được với sắc thì nhãn thức không không thể phát sinh ra được. Ví dụ như khi mà chúng ta ngủ thì làm sao mà nhãn thức phát sinh được. Mắt chúng ta có mở thì nhãn thức nó mới mới hoạt động. Cho nên là mặc dù là cái mắt nó còn, nhưng mà cái mắt của cái người bị mù chẳng hạn thì làm sao mà thấy được sắc. Cái người mà đã chết rồi thì cái mắt nó vẫn còn đấy chứ phải không? Nhưng mà không có nhìn được. Tất cả những cái đó đều chỉ dẫn đến cái gì, 4 cái yếu tố còn lại của cái cái thân năm uẩn này là thụ tưởng hành và thức. Nó vô thường nên nó vô ngã, tức là không có cái gì là bản ngã ở trong đó cả. Không có cái gì là chủ tể trong đó cả. Nếu có một cái chủ tể trong đó, thì nó sẽ có thể làm cho cái thân này không già, làm cho cái thân này không bệnh, làm cho cái thân này không chết, làm cho tâm chúng ta không buồn mà chỉ có vui sướng và tất cả cái đó chúng ta không bao giờ làm được. Bởi vì bản chất của nó do vô thường, cho nên là cái cốt lõi của các vô thường ấy chính là vô ngã. Đức Phật nói rằng là nếu mà chúng ta có cái ngã đấy, chúng ta có cái mà gọi là tôi là thế này, tôi là thế kia đấy. Ở trong đây có nói là cái ta đấy, thực ra nó không có cái ta này. Vì không có ta cho nên nó mới vô thường, chứ có cái ta thì nó sẽ có cái chủ tể, mà có cái chủ tể nó sẽ sẽ theo cái ý quyết định được. Ví dụ như là nói rằng là thân tôi, nếu mà cái thân đấy nó có cái tôi là để nó chỉ đạo, thì nó sẽ chỉ đạo cho cái thân này không già, nó sẽ chỉ đạo cho cái thân này không bệnh, nó sẽ chỉ đạo cho cái thân này không đau, nhưng mà thực tế là thân này già bệnh đau mà không có ai làm chủ được nó, vì nó không có ai làm chủ được, cho nên nó vô ngã. Cái cảm xúc, cái tư tưởng, cái tâm hành và cái ý thức cũng không có cái gì làm chủ được cả. Tất cả đều do duyên sinh và do duyên sinh thì vô ngã, mà do duyên sinh thì vô thường. Cái lý của nó là ở cái chỗ này. Cho nên là ở đây nói rằng là cái ta là vô thường, nó là tạm bợ. Chính vì là nó không có chủ tể. Chủ tể tức là cái ta đấy, chúng ta gọi là tôi, vì thế mới đặt cái câu hỏi tôi là ai, ai chỉ cho tôi biết là tôi là cái gì, nó không có cái tôi thì làm sao mà chỉ cho biết được nó là cái gì. Nghe cái câu nói là tôi là ai thì nhiều người nói là tôi là tôi, chứ tôi là ai. Nhưng mà tôi là tôi, tôi là cái gì thì chúng ta cũng cũng biết được. Và chỉ trong cái thân chúng ta cái gì là cái tôi thì không ai tìm ra được cái tôi ấy cả, bởi vì không có cái tôi này. Vì không có cái tôi nó liên tục thay đổi, một sát ra trước nó là cái này, mà sát na sau là cái kia. Thế còn nếu mà chúng ta quán niệm cái cái tâm vô thường thì chúng ta thấy là cái mọi cái suy nghĩ của chúng ta ở trong đầu nó thay đổi liên tục, thay đổi liên tục, cái đó gọi là vọng tưởng đấy. Một sát na này nó nghĩ cái này, một sát na kia nghĩa cái kia. Chúng ta đang nghĩ cái này, bất chợt mắt chúng ta nhìn thấy cái gì, thì tâm chúng ta đã nó chạy sang cái cái vật mà chúng ta nhìn thấy rồi. Mắt chúng ta đang nhìn thấy cái này, nhưng mà bất chợt một cái âm thanh nào nay chúng ta nghe thấy thì tâm chúng ta đã chạy theo cái cái âm thanh của cái tai ấy rồi, tức là tai nó nghe rồi. Đức Phật mới nói là nó điên đảo chạy vòng quanh do sáu căn điều khiển, tức là bất chợt đang nghe thì chúng ta nhìn thấy, nó lại chạy từ cái tai sang cái mắt, đang cái mắt ngửi thấy cái mùi đấy thì chúng ta chú tâm vào cái mùi, thì cái chú tâm của tai mắt nó bị mất đi, không bao giờ một lúc mà cả 6 căn chúng ta chú tâm vào một một cái cả, bao giờ nó cũng có một cái nó hướng mạnh hơn để nó dẫn nó đi, và trong cái sự xoay chuyển liên tục ấy là nó bị xoay vần bởi cái sáu căn này, sáu căn nó thay đổi liên tục trong vấn đề nhận thức, vì thế nó mới tạo nên cái vô thường của cái tâm của chúng ta. Và do cái vô thường của cái tâm ấy, cho nên nó tạo nên mọi cái sự phiền toái trong trong con người chúng ta, mọi cái thư phiền não, mọi cái sự đau khổ, mọi cái sự bất hạnh, nó đều xuất phát từ cái vô thường của tâm này. Bởi vì chúng ta cứ muốn bám víu một cái gì đó, nhưng mà nó thay đổi liên tục và chính cái tâm chúng ta cũng lại là cái tác động để mọi cái sự nhận thức, mọi cái suy nghĩ của chúng ta nó liên tục thay đổi. Cho nên là chúng ta giống như cái người, đức Phật là chết đuối giữa biển khơi đấy. Cái biển khổ đau chính là nó không có bờ bến, mà chúng ta không bám víu nó mới ở đâu được. Bám vào cái tai không được, bám vào cái mắt không được, cái mũi không được, tức là nó cứ thay đổi liên tục, mà nó không có một cái gì cố định. Vì nó thay đổi, cho nên là nó sẽ dẫn đến khổ đau. Hôm nay chúng ta xin nghỉ ở đây hôm sau, phần còn lại chúng ta sẽ xin được tiếp tục.

A Di Đà Phật!

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 3 : VÔ THƯỜNG

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 05.06.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 6: SÁM HỐI
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 6: SÁM HỐI
BÀI 6- SÁM HỐI Trong Phật pháp có câu: "Hà nhân vô tội, hà giả vô khiên, tử túc động...
TRỰC TIẾP LỄ TỔNG KẾT LỚP GIÁO LÝ PHẬT PHÁP CĂN BẢN & KHAI GIẢNG LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ
TRỰC TIẾP LỄ TỔNG KẾT LỚP GIÁO LÝ PHẬT PHÁP CĂN BẢN & KHAI GIẢNG LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ
TRỰC TIẾP LỄ TỔNG KẾT LỚP GIÁO LÝ PHẬT PHÁP CĂN BẢN & KHAI GIẢNG LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ ĐƯỢC ...
CHỦ ĐỀ: KỂ CHUYỆN TẾT (BUỔI HỌC TỔNG KẾT CUỐI NĂM 2023)
CHỦ ĐỀ: KỂ CHUYỆN TẾT (BUỔI HỌC TỔNG KẾT CUỐI NĂM 2023)
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – KỂ CHUYỆN TẾT (BUỔI HỌC TỔNG KẾT CUỐI NĂM 2023) ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouT...
Được xem nhiều