Bài 03
LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (tiếp theo)
(Từ Thành đạo đến nhập Niết bàn)
Phần 01
Kính thưa đại chúng, nay chúng ta tiếp tục bài thứ Ba về Lược sử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ thành đạo đến nhập Niết bàn xin mời quý vị nào phát tâm đọc để cúng giàng đại chúng.
Kinh văn:
A. MỞ ĐỀ:
Trong bài trước, chúng ta đã thấy đức Phật Thích-Ca vì một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Ðại nguyện và lòng từ bi lớn lao ấy là: “Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ”.
Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết-bàn, mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư Phật đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người.
Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng, vì cái đạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sinh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. Chúng sinh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không khỏi chóa mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của trí tuệ.
Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sinh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương quyết thực hiện sứ mạng của mình.
Nam mô bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Giảng giải chi tiết:
Kính thưa đại chúng, sau khi mà đức Thế tôn thành đạo dưới cội bồ đề đã chứng thánh quả vị vô thượng chính đẳng, chính giác, theo Phật sử- ngài còn ở lại dưới bồ đề đạo tràng tức là dưới cội bồ đề ấy trong khoảng thời gian bảy tuần thất nữa – bốn mươi chín ngày nữa. Trong bảy tuần ấy đức Thế tôn đã cảm ơn cội bồ đề che chở ngài và đã giúp ngài thành quả vị vô thượng. Sau đó, lần lượt tiếp theo của những tuần thất tiếp theo xung quanh cội bồ đề và trong thời gian ấy, khi ngài tận hưởng được hương vị giải thoát giác ngộ, do vậy đức Thế Tôn nghĩ rằng giáo pháp mà ngài chứng ngộ thì hết sức cao sâu, mà căn cơ của chúng sinh thì rất thấp kém khó có thể tiếp nhận giáo lý mà Đức Phật chứng ngộ. Điều khó tiếp nhận ở đây là bởi vì chúng sinh tất cả đều sống trong quan niệm hữu ngã, mà giáo lý của Đức Phật thật chứng là vô ngã, do đó khi mà nói ra khó để cho người ta tiếp nhận được và khi nói ra những cái giáo lý sự thật ấy thì khiến cho nhiều người trở nên kinh sợ và phỉ báng, mà phỉ bảng như vậy thì dẫn đến tội đọa địa ngục. Vì phỉ báng Đức Phật và phỉ báng giáo pháp của Phật, do đó Đức Phật băn khoăn về chuyện có nên thuyết pháp hay không hay là nên nhập niết bàn. Khi ấy phạm thiên có xuất hiện và bạch với đức Thế tôn rằng: bạch đức Thế tôn ngài đã phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp và một trăm đại kiếp tu hành vì mục đích cứu khổ chúng sinh, nay mục đích ấy đã quả vị Phật, đã thành tựu nếu ngài nhập niết bàn thì có vô số chúng sinh sẽ không được nghe giáo pháp bất tử này, và đó là một thiệt hại lớn. Như thế là không theo truyền thống của chư Phật, con thấy rằng trong hàng chúng sinh căn cơ vẫn có những người có đủ khả năng ý nghe hiểu và thực hành được lời Phật dạy.
Sau ba lần cần cầu như thế thì đức Thế tôn im lặng và nhận lời rồi trong tuần thất đức thế tôn đã ngồi trước hồ sen, quán sát hồ sen thì thấy có những các mầm sen ở trong bùn, rồi thấy có những các cái mầm sen nó nhú ra khỏi bùn ở trong nước rồi nhú lên khỏi mặt nước và có những các cái bông sen nó đã nở hoa. Chính vì vậy ngài thấy căn cơ của chúng sinh cũng giống như thế. Do đó đức thế tôn quyết định lại chuyển bánh xe pháp luân để mà hóa độ chúng sinh. Để thực hành bản nguyện là trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, và chỉ cho chúng sinh trong sinh tử luân hồi tìm ra con đường bất tử. Ở đây chính là khởi điểm mà đức Thế tôn suy xét về vấn đề chuyển bánh xe pháp luân của Ngài.
Ta sang cái phần chính, đề một lớn là hóa độ rộng lớn và cùng khắp của Đức Phật. Ở đây phần nói về cái sự hóa độ rộng lớn cùng khắp của Đức Phật thì các vị cũng đã nghe đọc ở trong giáo trình đây chúng tôi xin tóm tắt về ba cái vấn đề mà nêu ra ở đây.
Kinh văn:
B. CHÁNH ĐỀ
I. SỰ HÓA ĐỘ RỘNG LỚN VÀ CÙNG KHẮP CỦA ĐỨC PHẬT
Sứ mạng hóa độ của đức Phật, như chúng ta đã biết, thật nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, lòng từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần bình đẳng triệt để và nhờ ý chí dũng mãnh không thối chuyển, mà Ðức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình một cách viên mãn. Trong khi hóa độ, Ngài đã dựa theo ba nguyên tắc sau đây:
- Hóa độ theo thứ lớp căn cơ.
Khi bắt đầu đi truyền đạo, ý nghĩ trước tiên của Ngài là đến vườn Lộc Uyển tìm mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các ông: Kiều-Trần-Như, Ác-Bệ, Thập-Lực, Ma-Ha-Nam và Bạc-Ðề. Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Năm vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn trong 3 tháng cho 55 người Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy đều xin qui y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm ông Kiều-Trần-Như thành 60 đệ tử. 60 người đệ tử này sau khi giữ đúng giới luật, được Phật thọ ký cho đi truyền đạo khắp nơi.
Ðức Phật rời vườn Lộc Uyển đi về phía Nam đến xứ Ưu-lầu-tần-loa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của đạo Thờ Lửa là ông Ma-ha Ca-Diếp và hai người em của ông. Ông Ca-Diếp mang tất cả số đệ tử của mình là 1.250 vị, xin qui y theo Phật.
Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Ma-kiệt-đà vào thành Vương-xá để độ cho vua. Vua Tần-bà-xa-la gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh xá Trúc Lâm, để thỉnh Phật và chư tăng ở lại thuyết pháp độ sinh.
Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc Lâm, thì vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Ca-tỳ-la-vệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc Lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh-Phạn vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương-xá trở về Ca-tỳ-la-vệ, đức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này đều xin qui y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nâu-Lâu-Ðà, La-Hầu-La…
Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo. Ngài đi đến thành Xá-vệ là kinh đô nước Kiều-tát-la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-nặc. Ở thành này, có một vị đại thần tên là Tu-Ðạt-Ða, giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Cấp-cô-độc Trưởng giả . Ông rất ngưỡng mộ đức Phật nên đã trút hết tất cả tiền của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của thái tử Kỳ-Ðà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sinh.
Ðược ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng hà, Ðức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bịnh, Phật thuyết về “Lẽ vô thường, khổ, không, vô ngã” cho vua nghe. Nghe xong, vua liền dứt phiền não, gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái.
Sau khi Tịnh-Phạn vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Ðề và bà Da-Du Ðà-La cùng nhiều người bên nữ giới họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong đạo Phật lần đầu tiên có hàng Tỳ kheo ni.
Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo, đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông Cấp-cô-độc lập tịnh xá, cất giảng đường để Ngài thuyết pháp độ sinh.
Như thế chúng ta thấy đức Phật đã tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những hạn người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lý của Ngài rồi mới rộng ra những người khác; lập Tỳ kheo trước rồi Tỳ kheo ni sau.
2- Hóa độ tùy phương tiện.
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sinh, lắm khi đức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tùy phương tiện để cảm hóa họ, và đưa họ về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi thì Ngài bị cô gái con ngoại đạo độn bụng giả có chửa đến giữa đạo tràng để vu oan cho Ngài; khi thì Ngài bị anh chàng Vô-não đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn ngón mà nó đã giết người để lấy, vì theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi thì Phật bị Ðề-Bà-Ðạt-Ða, người em họ hung ác, âm mưu hãm hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp Phật, hay lăn đá to từ trên núi cao xuống đè Phật.
Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, vì oai đức uy danh và trí huệ của Phật bảo bọc Phật, không một hành động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hướng dễ dàng, hoán cải được tất cả những nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo trở thành Phật tử. Bằng chứng là: Ðề-Bà-Ðạt-Ða cũng được Ngài thọ ký; anh chàng Vô-não cũng được qui y; bầy voi say cũng được sám hối; Vua A-Xà-Thế cũng hối cải và quay về đường ngay.
Nói tóm lại, Ðức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền đạo của Ngài. Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong giáo hội của Ngài, Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lý của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông Nan-Ðà, mặc dù thân đã xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đưa ông lên cõi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những hình phạt đau đớn, rùng rợn, hãi hùng để ông so sánh hai cảnh đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lựa lấy một đường.
Còn đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng vì nghiệp duyên còn nặng, nên mắc nạn “Ma-đăng-già”, thì Phật lại đem giáo lý thâm sâu là kinh Lăng Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rõ được cái quí giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không giong ruổi theo giả cảnh nữa.
Xem như thế thì Ðức Phật đã dùng phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bịnh cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Ðối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài.
3 – Hóa độ theo tinh thần bình đẳng.
Tinh thần triệt để bình đẳng là một điểm son quí giá nhất trong giáo lý của đức Phật, cũng như trong tâm hồn của Ngài. Ngay từ khi còn ấu thơ, tinh thần ấy đã được bộc lộ trong những cử chỉ cứu giúp những kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đã thấy trong bài trước.
Khi thành đạo, tinh thần bình đẳng ấy lại bộc lộ rõ ràng hơn nữa. Ngài đã có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc. Như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho Ngài, thì Ngài phán bảo:”Không có giai cấp, trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật”.
Trong giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông Ưu-Ba-Ly, một đệ tử có tiếng tăm của Ngài về phương diện giới luật, là một người thuộc giai cấp hạ tiện Chiên-đà-la, làm nghề gánh phẩn.
Sự thâu nhận ấy đã làm cho các vị vua chúa bất mãn. Chính vua Ba-tư-nặc đã bạch Phật: “Ðấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?”.
Phật dạy rằng:
“Người hèn hạ mà biết phát tâm bồ đề, xuất gia tu hành, chứng được quả thánh, thì quí báu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”.
“Một người sinh ra không phải liền thành Bà-la-môn (giai cấp trên hết) hay Chiên-đà-la (giai cấp thấp nhất) mà chính vì sở hành của người ấy, tạo thành Chiên-đà-la hay Bà-la-môn”.
Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận hòn đất sét mà đứa bé đã nắn để dâng Ngài, thọ lãnh bữa cơm cuối cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng.
Chính vì sự hóa độ bình đẳng như thế, mà kinh Ðại Niết-bàn đã tán thán:
“Ðức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho hạng người quyền quí như vua Bạc-đề-ca, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bần cùng như ông Ưu-ba-ly; không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu có như ông Tu-đạt-đa, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông Thuần-đà; không riêng cho phép xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài Ca-diếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông Nan-đà; không những thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua Tần-bà-sa-la trong lúc đang bận rộn việc nước; không những thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà hoàng hậu Mạt-Lỵ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ Liên-Hoa”.
Giảng giải chi tiết:
Điều hóa độ của Đức Phật là trước hết là hóa độ theo căn cơ. Căn cơ là cái gì – là tính ngộ của chúng sinh, chúng ta thường nói là mỗi người có căn cơ khác nhau rằng trong Phật pháp thì chia ra làm ba hạng căn cơ thượng căn, trung căn và hạ căn. Căn là gốc rễ cơ là cơ duyên tức là họ phải có cái gốc rễ Phật pháp, họ phải có cơ duyên được độ, cho nên là trong kinh thường nói là Phật có thể hóa độ tất cả chúng sinh nhưng không thể hóa độ người vô duyên. Người không có duyên với Phật là Phật không độ được, chỉ những người nào có duyên với Phật pháp, Phật mới độ được mà thôi. Mặc dù là Đức Phật là gì có thể hóa độ được tất cả nhưng những người vô duyên là không độ. Ai cũng có duyên với Phật, Phật độ mà ai không có duyên với Phật là Phật không độ được. Chúng ta đừng nghĩ rằng là Đức Phật là thần thông biến hóa độ cho tất cả chúng sinh, ai ai Phật cũng độ – không phải. Chúng ta cứ nghĩ rằng, nếu mà Phật độ hết chúng sinh lúc bấy giờ thì khi Phật ra đời thì tất cả những người đương thời đều được độ hết rồi phải không. Nhưng mà thực tế thì số người được Đức Phật hóa độ khi Đức Phật còn sinh thời không phải là nhiều. Chỉ có những người có duyên mới Phật, Phật mới độ được. Cho nên trong kinh pháp hoa, Đức Phật mới cho chúng ta biết rằng những người được Đức Phật độ, ở trong thời mà Đức Phật thành Phật và hóa độ thì tất cả những người đó đã từng kết duyên với Đức Phật từ rất nhiều đời nhiều kiếp. Cho nên những người được Đức Phật hóa độ đều là kết duyên với Phật từ trong hội pháp hoa của Đức Phật Đại thông chí thắng. Những người đó đã từng là bạn đồng tu với Phật cũng như những người từ vô lượng kiếp đã từng làm đệ tử của ngài rồi, có những người từng làm thân hữu của ngài và có những người ấy là thuận duyên để hộ thì ngày tu học, nhưng cũng có những người tạo cái nghịch duyên ấy để mà cản trở ngài. Ví dụ như trường hợp mà trong kinh nói là Đề Bà Đạt Đa chẳng hạn, Đề Bà Đạt Đa không phải đến sau này ngày mới xuất hiện để tìm cách chống đối Đức Phật và trong vô lượng kiếp thì vị ấy cũng đã trở thành một luôn luôn đi với Đức Phật giống như hình ảnh trái ngược và Đức Phật nói rằng là chính Đề Bà Đạt Đa mới là thiện tri thức. Người ấy giúp cho nghị lực tu hành của ngài trở nên kiên cố và giúp cho sự cảm hóa của Phật càng thêm vĩ đại, bởi vì sự vĩ đại ấy là cảm hóa được cả những người chống đối mình, cảm hóa cả những người muốn giết hại mình, và hóa độ cho người gọi là kẻ thù của mình. Vì thế trong Phật pháp mới nói là coi kẻ thù cũng như ruột thịt, coi súc vật tựa thể anh em, nhưng mà phải chốt lại một câu là gì, có duyên mới độ, không duyên không độ. Cho nên là tại sao là ngày nay chưa tổ các vị tăng ni tu hành gọi là trước hết là phải kết duyên với Phật pháp, dù là duyên ấy là là sâu hay là nông, là cũ hay là mới là thuận hay là nghịch, dù thuận duyên cũng là duyên để độ, mà nghịch duyên cũng vẫn là duyên để độ, chỉ cần có duyên thì sẽ độ được. Cho nên trong kinh Địa Tạng nói rằng chúng sinh chỉ cần kết duyên với Phật pháp bằng một giọt nước, bằng hạt cát, bằng hạt bụi là có cơ duyên để độ, nhưng không có nhân duyên thì không độ được. Tôi nói ví dụ một câu chuyện về ông già được Đức Phật độ cho. Trong kinh có nói một câu chuyện như thế này, một ông cũng đã bảy tám mươi tuổi rồi, lúc trẻ thì phấn đấu hết sự mình để xây dựng sự nghiệp và phục vụ vợ con, đến lúc già rồi là không làm gì được, bắt đầu ngồi đấy ăn – vợ con phải phục vụ cho nên lúc ông ấy làm ra của cải để nuôi mọi người thì không thấy ai phàn nàn, nhưng đến lúc mà không làm được gì thì vợ con là những người phàn nàn. Ăn không ngồi rồi cho nên ông rất buồn và bực mình, ông ta nói là ông ta không cần nữa, ông ta đi tự tử. Thế vợ con thì nghĩ là ông ấy nói đùa thì nói là ông cứ đi chết luôn đi, nói câu chuyện như thế thì đây không phải là câu chuyện ở trong kinh mà có lẽ là trên thời gian này những chuyện đó rất nhiều, và ông ta đã đã đi đến cây cầu rồi ông đã nhảy xuống sông nhưng nước nông, nhảy mà không chết. Ông ta ngồi trên bờ ông ta khóc ông nghĩ là bây giờ mà mình nói là mình đi, mà bây giờ quay về thì nó lại càng khinh hơn, mà chết thì không chết được không biết làm thế nào. Ông ngồi khóc thì có người nói ông thử vào chùa xem sao. Và lúc bấy giờ ông ta có đến đến tịnh xá của ngài Cấp Cô Độc để xin tu. Ông ta đã đến gặp ngài Xá Lợi Phất, ngài Xá Lợi Phất nói: Đức Phật có dạy là trước khi mà muốn độ ai xuất gia là phải quán nhân duyên xem họ có căn cơ hay không, có độ được không thì mới độ. Ngài Xá Lợi Phất dùng hết năng lực của một vị A la hán trí tuệ bậc nhất xem trong vòng tám mươi kiếp, ông này ông chưa từng gieo một nhân duyên nhỏ nào bằng hạt cát, bằng giọt nước với Phật pháp, cho nên ngày lắc đầu vào không độ được. Sau đó, ông già này đến với ngài Mục Kiền Liên, ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất dùng hết khả năng thần thông cũng chỉ đến tám mươi kiếp không thấy có một chút thiện căn nào, liền lắc đầu không độ. Ông ta lần lượt đi gặp năm trăm vị A la hán khác hỏi thì được bảo ngài Xá Lợi Phất đã không độ thì chẳng ai dám độ. Tất cả năm trăm vị A la hán không ai độ, vì thấy ông ta không có thiện căn, không có nhân duyên. Cuối cùng, ông ta lại ra ngoài cổng chùa ngồi khóc. Đi chết thì không chết được, về nhà không về được, đi tu thì không có chỗ, rơi vào đường cùng. Lúc bấy giờ thì Đức Thế tôn mới đi về thấy ông ta khóc mới hỏi tại sao, bảo là con muốn đến tu nhưng mà mọi người không có cho tu. Đức Thế tôn bảo thế thì ông vào tôi độ cho ông. Lúc bấy giờ ông ta mới biết ngài là Đức Phật. Thế rồi dưới sự hướng dẫn của Đức Phật thì không đầy ba tháng sau ông này ông ấy đã chứng quả A la hán. Khi Đức Phật tuyên bố là ông già này ông đã chứng quả là rồi. Các vị tỷ khiêu già chứng quả A la hán ngạc nhiên lắm. Và ngài A Nan cùng với đại chúng đến chỗ Đức Phật, có hỏi: Thưa bạch Đức Thế tôn, Đức Thế tôn nói rằng là người không có căn cơ với Phật, không có cơ duyên không có nhân duyên với Phật pháp là không độ được, và tất cả hàng A la hán chúng con nhập định không thấy ông này có duyên gì với Phật pháp. Vì lẽ gì mà đức Thế tôn độ cho ông ấy chỉ không đầy ba tháng mà ông đã chứng quả A La Hán. Thế tôn có nói rằng- năng lực của các vị chỉ biết đến kiếp thứ tám mươi thôi nhưng mà chưa biết tiếp đến thứ chín mươi. Đức Phật quán sâu hơn qua cái tám mươi tiếp của ông ấy thì thì biết là chín mươi mốt kiếp trước, ông này đã từng gieo một nhân duyên với Phật pháp. Đức Phật nói là vào thời Đức Phật Ca diếp đã nhập niết bàn rồi, ông này vốn là một tiều phu đi đốn củi, và ông ta vào trong rừng đốn củi. Vào lúc bấy giờ là Phật nhập diệt cũng giống như thời mạt pháp của chúng ta, mặc dù không gặp Phật nhưng mà lúc bấy giờ ông cũng không có quy y, không biết Phật pháp là gì cả, nhưng mà vì đi đốn củi vì kiếm ăn thôi, nhưng cũng biết là có Phật, có thế thôi. Lúc bấy giờ vào rừng kiếm củi gặp một con mãnh thú là con hổ, nó rượt đuổi và trong lúc vội vàng sợ quá ông ta leo lên trên cây, để tránh thú dữ ông ta kêu được mỗi một câu: Mô Phật cứu con. Trong lúc gấp gáp thế thì ông ta niệm được mấy câu như vậy thì là con hổ nó không leo lên cây rồi nó bỏ đi. Đây chính nhân duyên mà ông ta trong lúc sinh tử cận kề, chín mươi mốt kiếp trước ông ta có niệm được một câu là Mô Phật cứu con, và chính vì thế cho nên kiếp này ông được làm người, ông gặp được Phật và được Phật hóa độ. Nói câu chuyện này để chúng ta có một niềm tin với Tam Bảo. Chúng ta là người học Phật, chúng ta đã từng tụng kinh Phật, chúng ta đã từng niệm danh hiệu Phật, ông kia chỉ niệm mỗi một hai câu trong lúc gấp gáp- ông ta còn được được gặp Phật được độ được chứng quả A la hán, thì không lý gì chúng ta ngày nay dù cách Phật đã xa, chúng ta đã từng tụng kinh, đã từng niệm Phật thì nhất định hiện tại và tương lai chúng ta sẽ được giải thoát và giác ngộ. Cho nên đấy chính là điều mà nói nên- Đức Phật hóa độ theo căn cơ, tức là có căn cơ thì mới độ được, có cơ duyên thì mới độ được. Cho nên, tùy theo căn cơ của chúng ta cao hay thấp mà Đức Phật sẽ sử dụng những bài giáo pháp thích hợp phù hợp với căn cơ của từng loại chúng sinh, để mà giảng Kinh thuyết pháp. Cho nên chúng ta thấy có những bậc thượng căn, thượng cơ như là ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục kiền liên – chưa gặp Phật mà chỉ nghe bài kệ của tôn giả thôi thì các ngài đã chứng được sơ quả rồi, dưới sự hướng dẫn của Đức Phật sau một tuần ấy ngài Mục Kiền Liên đã chứng quả A la hán, hai tuần sau là ngài Xá Lợi Phất cũng chứng quả A la hán. Có những người đặc biệt lắm, có một vị vua ở trong kinh, nghe Đức Phật nói xong bài kệ mà ông ta đã chứng quả A la hán ngay, sự chứng quả A la hán của vị vua ấy còn nhanh hơn cả ngài Xá Lợi Phất. Đức Phật nói dứt câu kệ là ông ta đã chứng quả ngay rồi. Cái đấy phụ thuộc vào căn cơ khác nhau. Nói như thế nhiều khi ngày nay chúng ta không tin được tại sao lại chứng quả nhanh thế, ngày nay chúng ta tụng kinh này, tụng kinh kia rồi nghe giảng hết ngày này qua ngày khác mà không ai chứng được quả ngay lập tức. Ở đây xin thưa thế này, những người mà có căn duyên với Đức Phật sâu dày, như trong kinh Pháp hoa nói họ đã tu cùng với Đức Phật từ thời đức Đại thông chí thắng đến giờ. Quả của các vị ấy cũng đã đến lúc chín rồi và chỉ cần Phật tác động một tác động nhỏ thôi, thì lập tức là họ đại triệt đại ngộ. Cũng giống như chúng ta trong lòng suy nghĩ một điều gì đó còn vướng mắc và được người ta gợi ý một cái là chúng ta gì hiểu ra ngay vấn đề, thì cái sự triệt ngộ của các bậc thánh A la hán thời Đức Phật cũng giống như vậy. Cho nên phần lớn các đại đệ tử các bậc thánh A la hán thời Đức Phật là đều đã những người đã từng được Đức Phật chỉ dạy tu học và đã từng tu học Phật pháp rất nhiều kiếp. Các ngài phải tích công lũy đức như vậy và chúng ta ngày nay cũng là đang đi theo con đường này, đời này kiếp khác học Phật nghe pháp, để tích lũy công hạnh này, tích nguyễn công hạnh này. Một để chúng ta chấm dứt cuộc đời này có thể vãng sinh về Tây phương và tiếp tục tu cho đến thành vô thượng chính đẳng chính giác. Hoặc là ở lại thế giới Sa bà này tiếp tục tu tập và đợi cho đến khi Đức Phật Di lặc ra đời và cũng giống như thời kỳ đức Thế tôn ra đời chỉ cần gặp Đức Phật ra đời, Di lặc ra đời chúng ta nghe Phật thuyết pháp là chúng ta có thể giác ngộ. Còn những người mà căn cơ nhanh nhạy hơn thì ngay trong đời này vẫn có thể giác ngộ không cần đợi gì đến khi gặp Phật ra đời nữa, bởi vì những người căn cơ nhạy bén và có công phu tu tập cao thì ngay trong đời hiện tại vẫn có thể chứng thánh quả. Cái đó gọi là hóa độ theo căn cơ, thứ lớp. Thế còn hóa độ như thế nào, về lịch sử của Đức Phật nói rất là dài, mà trong các cái câu chuyện về lịch sử Đức Phật thì nói rất rõ.
Cái điểm thứ hai đây là nói là hóa độ tùy theo phương tiện. Phương tiện là những phương pháp thuận tiện, phương tiện thì trong Phật Pháp mới gọi đó là sự diệu dụng. Phương tiện thì vốn không phải thật, đó là phương pháp thuận tiện nhất và trong các phương pháp thuận tiện ấy cho nên Đức Phật phương pháp có nhiều cách khác nhau, nhiều phương pháp khác nhau và Đức Phật không dùng một phương pháp cố định nào cả. Tùy theo căn cơ, tùy theo đối tượng tùy theo hoàn cảnh mà Đức Phật sử dụng các phương pháp khác nhau. Chính vì chúng sinh có căn cơ nhiều các loại cho nên là Phật dùng rất nhiều phương tiện, vì thế trong kinh mới chia ra như ở trên nói là chia ra là mười hai loại bộ kinh hoặc chín loại bộ, hoặc là có tới tám vạn bốn nghìn pháp môn phương tiện. Tại sao nói lắm phương tiện như vậy, mỗi một bài kinh của Đức Phật là một phương tiện. Mỗi một bài pháp thoại của Đức Phật là cho một loại căn cơ, bởi vì chúng sinh có tới tám vạn bốn nghìn căn cơ khác nhau, tám vạn bốn nghìn loại phiền não khác nhau do đó cần phải dùng tới tám vạn bốn nghìn bài pháp khác nhau. Thực ra giám sát của Đức Phật thì những bài đầu chúng tôi nói rồi, giáo lý căn bản chỉ là nhân duyên, chỉ là nhân quả, chỉ là pháp Tứ đế. Cho nên chúng ta biết bài pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng, là pháp Tứ đế, gọi là kinh Chuyển pháp luân. Kinh Chuyển pháp luân là bài kinh Tứ đế và đây là nội dung căn bản của toàn bộ giáo pháp của Đức Phật. Và đây là bài tổng thuyết cũng như là gì toàn bộ giáo pháp, cho đến khi Đức Phật nhập niết bàn ngài cũng vẫn thuyết Tứ đế mà thôi. Nội dung của bài kinh nào cũng chỉ là Tứ đế, nhưng mà ở các phương diện khác nhau thì Đức Phật lại diễn giải Tứ đề ấy theo chiều hướng khác nhau, để cho nó phù hợp với căn cơ của người nghe, cho nên đó gọi là phương tiện. Bản chất Phật pháp chỉ có một nhưng mà đối tượng nghe khác nhau thì Đức Phật giảng nói khác nhau. Cũng giống như chúng ta có nhiều căn bệnh, có nhiều căn bệnh thế, thì mỗi một loại bệnh thì phải chế một cái loại thuốc nó thích hợp, cho nên là bệnh nào thì phải là dùng thuốc ấy. Vì chúng sinh nói như trên là căn cơ khác nhau, phiền não khác nhau, trình độ nhận thức khác nhau, văn hóa khác nhau, tín ngưỡng khác nhau, thế rồi niềm tin khác nhau, khả năng tinh tiến tu tập khác nhau, thì rõ ràng là phải chế định những các cái bài thuốc thích hợp với từng căn bệnh. Ví dụ- những người nặng về tham thì phải dùng biện pháp để đoạn tham cho họ, thì họ chứng quả. Người mà nặng về sân thì phải dùng bài pháp để chữa trị sân, người mà nặng về si thì phải chữa trị với si. Tham thì có người nặng về tham tiền, phải chữa cái bệnh về tham tiền. Người mà tham ăn thì phải chữa bệnh với tham ăn. Chứ làm sao mà tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ mà mà chữa giống nhau được. Ngay chuyện tham sắc thôi nhưng mức độ, người thì một trăm phần trăm, người tám mươi phần trăm, người bảy mươi, người hai mươi, người mười, ví dụ như thế thì mỗi một cái hạng người như vậy lại phải có một bài pháp khác nhau. Nếu mà chúng ta áp dụng pháp của Đức Phật mà không đúng đối tượng, không có kết quả. Cũng giống như chúng ta mà ngày nay học Phật, tu Phật mà không có kết quả là có lý do liên quan đến cách mà chúng ta sử dụng phương pháp không đúng. Đó là chúng ta không biết bệnh của mình và cũng không biết dùng thuốc nào. Thuốc và bệnh không phù hợp với nhau cho nên bệnh không khỏi vì thế chúng ta tu không có kết quả. Ngay thời Phật thôi cũng có một câu chuyện là do sử dụng sai căn cơ, cho nên áp dụng sai giáo pháp của Phật vì thế không có kết quả. Có hai người đi xuất gia. Một người trước khi đi xuất gia thì làm nghề mà bây giờ chúng ta gọi là bốc mộ, và một người làm cái nghề lò rèn, tức là kéo bễ. Hai vị đó đi xuất gia và được giao cho hai đại tôn giả đó là ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên để làm thầy hướng dẫn. Thì ông bốc mộ lại được giao cho ngài Xá Lợi Phất dậy ông ta cái pháp tu quán hơi thở tức là quán hơi thở ra, hơi thở vào. Còn cái ông lò rèn thì lại được sao cho Ngài Mục Kiền Liên, dạy cho ông ta cái pháp gọi là quán thân bất tịnh. Áp dụng một cái thời gian như vậy, vài ba tháng tu không có kết quả và cuối cùng hai người này chán nản, muốn bỏ tu mà trở về. Trước khi về có đến gặp Đức Phật thưa chúng con xin thôi về làm cư sĩ tại gia bởi vì thấy rằng cuộc sống xuất gia không hợp với chúng con nữa, và chúng con đã nỗ lực hết sức tu nhưng không có kết quả gì mà phiền não còn tăng thêm. Đức Phật hỏi là các ông ta tu thế nào, thầy các ông đã dạy cho cái gì. Chúng ta biết rằng ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên là đứng đầu trong hàng đại đệ tử của Phật về trí tuệ và thần thông, ông bốc mộ thì lại được tu cái pháp môn quán hơi thở, mà cái ông lò rèn thì lại tu pháp quán thân bất tịnh. Đức Phật bảo thôi các ông không cần phải về vội nữa, cứ ở lại và đổi cái pháp môn cho nhau đi. Ông bốc mộ tu quán thân bất tịnh, bởi vì ông ta đi bốc mộ bốc mả hàng ngày ông ta tiếp xúc với bộ xương của con người, và không cần quán ông ta chỉ cần tưởng tượng lại thôi thì ông ta đã đã nhập được về cái pháp là bản thân bất tịnh. Quán thân bất tịnh là phương pháp nhìn một người đang trẻ đẹp thế này rồi tưởng họ cho đến già, già cho đến bệnh, bệnh cho đến chết, chết cho đến khi là toàn bộ xương, cho đến là khi tan ra thành đất, đấy là quán thân bất tịnh. Thế thì ông này làm quen cái chuyện đó bảo như thế là ông ra quán được ngay. Cái ông kéo lò bễ thì thì giống như cái hơi thở ra hơi thở vào thì kéo cái cái bễ lò, thì hàng ngày ông ta là kéo như thế là ông ta biết rồi. Và lập tức là quán hơi thở ra, hơi thở vào lập tức ông ta quán được ngay. Cũng không đầy một tháng sau hai người này chứng quả A la hán. Đấy chính là hóa độ tùy phương tiện, tức là phải tìm đúng phương tiện tìm đúng căn cơ và áp dụng đúng thì có kết quả. Cho nên trong kinh nói rằng là Đức Phật buổi sáng sớm, một ngày của làm việc của Đức Phật như thế này. Đức Phật thường thức dậy vào lúc khoảng hai giờ đến hai giờ ba mươi sáng, mà lúc bấy giờ ngài sẽ nhập định để quán chiếu trong tất cả tam thiên đại thiên thế giới, xem hôm nay đi đến đâu, độ ai, ai có khả năng độ được. Đức Phật phải quán xem là căn cơ của họ đã chín chưa, nếu cơ duyên đã chín, duyên có thể độ được thì Đức Phật sẽ đích thân đi đến đó để tìm người đó để độ. Đức Phật là chủ động đi tìm chúng sinh để độ, chứ ngày không có ngồi một chỗ để đợi chúng sinh tới. Cái này nó khác với ngày nay là chư tăng là ở yên một chùa, còn mọi người là có nhu cầu thì tự tìm đến. Nó khác là như vậy, chứ thời Đức Phật là Đức Phật tự tìm đến chúng sinh, ngài biết rằng là hôm nay có người này có thể độ được ngày sẽ tìm đến tận nơi, tìm đến tận nhà của họ để mà độ cho họ, dù họ có làm cách nào thì Đức Phật cũng vẫn phải độ cho được. Trường hợp mà cho nhà vua chẳng hạn- Đức Phật đích thân tìm đến. Ví dụ như Đức Phật độ cho một trường hợp là một nhà bỏn xẻn, keo kiệt chẳng hạn. Câu chuyện là như thế này, buổi sáng hôm đó Đức Phật biết là trong thành có một ông trưởng giả, ông ấy giàu đến mức mà tiền của ông ấy còn nhiều hơn cả ngài Cấp Cô Độc nhưng mà ông này sống cực kỳ kham khổ, ông ta không bao giờ ông dám tiêu một cái gì, không dám bao giờ ông dám ăn một cái gì, mà ông ta chưa từng bố thí cho ai một cái gì bao giờ, và Đức Phật quan sát thấy rằng ông ta sở dĩ phúc báo đời này được giàu như thế là do ông ta đã tích nhiều công đức. Nhưng mà đời này ông ta tiếp tục như thế thì chắc chắn lúc chết đi ông ta sẽ đọa vào địa ngục. Cơ duyên mà ông ta được độ đã tới, Đức Phật quan sát là một hôm mà ông ta kiệt đến cái mức là không bao giờ ông ta dám ăn một cái gì xa xỉ cả, thèm cái gì của ông ta cũng tự kiềm chế và không bao giờ nói cái ước muốn mình muốn ăn cái gì để cho ai biết cả, kể cả vợ con và của cải là ông ta giấu rất kín không ai biết được. Giàu đến mức như vậy và keo kiệt đến cái mức như vậy. Một hôm ông ta đi ở đường thấy có một người ăn một cái bánh nó rất ngon và thơm, tự nhiên ông ấy đã khởi cái tâm là thèm ăn cái bánh ấy. Thế mà ông ta về ông ta cố kìm nén cái cái cơn thèm mà ông ta không bảo vợ để làm, không bỏ tiền ra mua. Nó chỉ đáng mấy xu thôi nhưng mà ông ta kiệt đến cái mức mà ông ta không bỏ tiền ra dù không phải là không có. Thế rồi ông ta thèm đến cái mức mà rồi ông ta kìm nén cái cơn cơn thèm thì mức mà chúng ta phát ốm, đổ bệnh. Mà trong khi đổ bệnh thì ông ta cũng không nói, rồi cuối cùng bà vợ bà dỗ mãi ông ta mới nói thổ lộ với bà vợ là tôi muốn ăn cái bánh ý, nhưng mà chỉ tôi, một mình tôi ăn thôi, đừng có làm cho ai ăn cả. Ông ta sợ là nếu mà ông ta nói ra cái đó thì bà vợ sẽ làm cho cả nhà ăn. Ôn ta còn còn keo đến cái mức như vậy, thì bà vợ và hứa là hôm nay tôi sẽ đóng cửa hết lại và tôi sẽ làm cái bánh này để cho ông ăn, một mình ông ăn thôi. Thế là ông ta đồng ý và bà đi mua nguyên liệu rồi đóng hết cả cửa vòng trong ở ngoài, hai vợ chồng kéo nhau lên tầng bẩy đóng hết cửa ở dưới, và hai vợ chồng lên trên đấy để làm cái bánh. Khi nói đến cái bánh ấy là ông ta khỏi bệnh, thế thì Đức Phật biết cái căn cơ có thể độ được cái ông này và ngài đi tới ngày dùng thần thông đấy, Ngài đứng ở cửa sổ, ông này thấy có một cái vị sư lại đứng ở cửa sổ của của ông ấy, nhắm mắt lại, thế rồi Đức Phật thị hiện các cái thứ thần thông để cho ông ấy ta nhìn thấy. Nhưng mà ông ta cứ chăm chăm là bảo bà vợ là đừng có nhìn gì cả, tức là chú ý vào cái chuyện là rán bánh đi. Thế là khi ông ấy rán xong muốn ăn, nhưng mà Đức Phật vẫn cứ không đi ngài vẫn cứ đứng ở bên ngoài, ông ta hiểu rằng là đối với các các vị sư thì phải cúng là một cái gì đó các vị mới đi, còn không là không đi. Thì ông ta bảo bà vợ là làm một cái bánh thật nhỏ vào để cho cái vị sư cho vị đi đi. Thế thì bà vợ bà đổ cái bột vào để nấu bánh thì thì Đức Phật dùng cái thần lực, ông ta muốn nhỏ bao nhiêu thì lớn lên bây nhiêu, thế rồi ông ta lại nhấc cái bánh lớn ấy ra ông lại bảo làm cái nhỏ hơn, thì cứ đổi một cái nào nó cũng lớn cả và khi mà nó lớn rồi ông ta bực mình ông bảo ông bà vợ là thôi cho một cái cho ông ấy đi. Thế thì bà vợ cầm một cái bánh thì tất cả cái sâu bánh nó dính liền vào nhau, thế mà ông ta túm lại, ông ta rằng cái bánh đó lại để chỉ cho một cái thôi nhưng mà không rằng được. Đức Phật dùng cái lực để cho cả đám dính vào. Trong lúc co kéo ấy mà như thế ông ta mệt lử ra không còn muốn ăn nữa, ông ta mới nói bảo thôi thế thì cho tất cả đi, bực mình quá không làm thế nào được. Đức Phật bấy giờ ngài mới thuyết pháp nói là đức Thế tôn không ăn một mình, mà đức Thế tôn phải ăn với chúng tăng. Và Đức Phật yêu cầu là ông ta muốn cúng dàng cho Đức Phật tay ông ta cứ dính vào cái bánh không nhắc ra được, nói là ông cứ muốn rời cái tay ra thì cũng phải mang cái số bánh này đến tịnh xá cúng dàng Đức Phật và chư tăng. Và nhờ cái thần lực của Đức Phật, ông ta đã đến được tịnh xá và cũng nhờ thần lực của Phật, mà có một chút bánh đó thôi mà ông ta cúng dàng đủ đến Đức Phật, cúng giàng đủ đến năm trăm vị thánh tăng A la hán. Đức Phật còn bảo ông ta mang những thứ đó ra bên ngoài phát cho kẻ nghèo người đói, sau nói Đức Phật thuyết cho ông ta một thời pháp. Lúc bấy giờ nhờ có nghe thời pháp của Đức Phật, thì hai vợ chồng cái ông keo kiệt hạng nhất này đã chứng được sơ quả. Sau khi đã hiểu pháp như vậy thì ông đã mở toàn bộ kho tàng mang đi bố thí hết. Đấy có một những cái người mà keo kiệt đến cái mức như thế, mà Đức Phật tùy theo căn cơ đấy, ngài phải dùng mọi phương tiện, thần thông này khác các thứ, nhưng mà ngài biết được ai độ được và độ vào lúc nào, duyên nó chín thì ngđộ là độ được. Cho nên là sáng sớm bao giờ Đức Phật quán nhân duyên, sau đó ngày đi hóa độ, buổi trưa ngài đi khất thực, buổi chiều ngày về giảng pháp cho chư tăng, buổi tối thì Đức Phật nhập định và lúc bấy giờ là hóa độ cho chư thiên, phần lớn chư thiên sẽ xuống hầu Đức Phật vào buổi tối vào lúc gần sáng, và các bài pháp Đức Phật giảng thuyết cho chư thiên thì Đức Phật sẽ nói lại cho ngài A Nan nghe, và lúc bấy giờ một ngày làm việc của Đức Phật là trong khoảng hai mươi tiếng đồng hồ, hai mươi hai tiếng, tức là một đêm Đức Phật chỉ có nghỉ ngơi trong khoảng độ hai tiếng.
Chúng ta biết rằng là đấy là cái gọi là hóa độ tùy phương tiện, với các phương tiện khác nhau như vậy cho nên là Đức Phật đã đã hóa độ các tầng lớp nhân dân như trên thì từ vua chúa dưới cho đến người nghèo cùng rồi cho đến kẻ cực ác như là Ương ba la quật, cho những kẻ mà xấu xa đồi bại như dâm nữ A ba la. Đức Phật đều hóa độ cho giác ngộ trở về với tự tính. Cái thứ ba ở đây là là sự giáo hóa của Đức Phật là dựa trên tinh thần bình đẳng. Ở đây, sự bình đẳng ở trong Phật pháp có hai vấn đề. Một là xét về bình đẳng về mặt tự tính thì Đức Phật đã nói- tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có khả năng học Phật và đều có khả năng giác ngộ bình đẳng như nhau. Thứ hai là về mặt con người, Đức Phật đã nói một câu nổi tiếng như ở trong vừa nãy đã trích dẫn: không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Đối với chúng sinh là bình đẳng mặt Phật tính, đối với nhân loại bình đẳng là không có giai cấp. Sự bình đẳng thứ ba của Đức Phật là bình đẳng giữa cả nam và nữ. Chúng ta biết rằng ngày nay thế giới đã rất là phát triển và đang thực hiện gọi là phấn đấu về chuyện là bình đẳng giữa các giới tính, cho đến hiện nay thì duy nhất các tôn giáo trên thế giới, duy nhất chỉ có Phật giáo thôi là có tỳ khiêu ni, tỳ khiêu ni là được xếp ngang hàng với tỳ khiêu. Chứ còn các cái tôn giáo khác chúng ta không phải so bì, nhưng lấy ví dụ như công giáo thì có nữ tu nhưng mà không có linh mục nữ. Người nữ không thể làm linh mục được, đấy là gọi tôn giáo của phương tây- các nước phát triển đấy, tôn giáo của các nước phương đông ví dụ như hồi giáo thì chúng ta biết rằng người nữ ra đường là phải che mặt, không được phép đến nhà thờ chứ đừng nói là có thể đi tu. Nhưng mà đối với Phật giáo chúng ta biết rằng người nữ có thể xuất gia tu hành có địa vị ngang bằng với nam giới và các vị nữ cũng có thể tu hành chứng quả A La Hán ngay trong đời hiện tại. Chúng ta biết rằng là khi bà Ma ba xà ba đề và bà Da du đà la đã xuất gia cùng với năm trăm người con gái họ Thích, và giáo hội ni đã được thành lập. Ni chúng đã tồn tại từ đó cho đến bây giờ và ngay trong thời Đức Phật thì cũng có hàng ngàn vị nữ giới theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán. Cho nên cái việc chứng quả nó không có liên quan gì đến giới tính nam hay nữ cả, bởi vì bản chất Phật tính là bình đẳng. Nhưng có người thì cho rằng trong giáo pháp của Đức Phật thì tỳ khiêu vẫn đứng trên ở tỳ khiêu ni. Đây là trật tự ở trong tăng đoàn mà thôi, đối với giới luật thì nhìn về chi tiết thì chúng ta thấy rằng đối với người nữ – Đức Phật có quy định một cách khắt khe hơn, nhưng sự khắt khe này không phải là thể hiện cái sự bất bình đẳng mà Đức Phật nói đó chính là sự bình đẳng. Cái này thì đối với người ta thì hơi khó hiểu nhưng mà Phật pháp thì phải giải thích thế này. Bởi vì căn tính của người nữ khác với căn tính của nam giới, do căn tính khác nhau cho nên phải sử dụng các biện pháp khác nhau và cách thức khác nhau mà thôi. Do người nữ có cái căn tính khác với người nam. Ngày nay nhiều khi xã hội nói rằng nam nữ bình quyền, nhưng mà đấy là nói về quyền con người thôi chứ còn không thể bình đẳng về mặt thể tính và thể tướng được. Người nữ có cái thiên chức của người nữ, và người nam không thể thay thế và người nam có thiên chức của người nam người nữ không thể thay thế người nam trong những thiên chức ấy được. Và cái đó là sự sai biệt về giới tính, sự sai biệt về giới tính này trong Phật pháp giải thích đó là do nghiệp duyên, nhân quả khác nhau cho nên dẫn đến hình tướng khác nhau, thể tính khác nhau và dẫn đến tính cách khác nhau. Do cái tính cách khác nhau cho nên là dẫn đến cái phiền não ở trong tâm của người nam người nữ là khác nhau, ví dụ như người nữ là nặng về ái chẳng hạn, tình thương nó hay bó buộc và do đó cái sự cố chấp và cái tham của người nữ nặng hơn người nam. Chính vì vậy cho nên là bệnh khác thì phải dùng thuốc khác thôi, chính là nguyên tắc như vậy và đấy chính là nguyên tắc bình đẳng. Chứ không phải là bình đẳng là cào bằng, san phẳng mà tất cả chỉ dùng một thứ thuốc mà khỏi được bệnh. Bệnh khác thì phải thuốc khác và đó cũng chính là nguyên tắc bình đẳng của Đức Phật.
Đó là Đức Phật không phân biệt giàu nghèo sang hèn trẻ già trai gái, người bảy tuổi có thể xuất ra được. Chúng ta biết rằng là đệ tử cuối cùng của Đức Phật la Tu bạt đà la – một trăm hai mươi tuổi xuất gia, mà ông ta xuất gia quả thật đây là một trường hợp hi hữu trước khi Đức Phật nhập niết bàn có mấy tiếng đồng hồ thôi, ông đến gặp được Đức Phật và nghe Đức Phật thuyết một thời pháp xong ấy thì chứng quả A la hán và ông xin phép Đức Phật nhập diệt trước, ông nhập niết bàn luôn và đấy là đệ vị đệ tử cuối cùng mà Đức Phật độ trước khi Đức Phật nhập niết bàn. Thế còn những người ít tuổi như La hầu la, xuất gia chỉ có sáu bảy tuổi, Đức Phật vẫn độ. Cho nên sau này trong giới luật có quy định là chỉ độ đến bảy mươi tuổi thôi, mà do thời đại nó thay đổi thì bây giờ chỉ độ đến những người 55 tuổi thôi, bởi vì thời kỳ kiếp số của chúng sinh khác nhau cho tuổi tác và sự giác ngộ khác nhau. Đức Phật nói người mà đủ khả năng xuất gia mà ngộ đạo ấy thì phải còn đủ sức khỏe đây là điều kiện thứ nhất. Phải đủ cái điều kiện minh mẫn tức là phải học được, tu được chứ không ai bảo là nhiều tuổi quá không tu được. Quý vị nói rằng xưa kia Đức Phật còn độ cho người trăm hai mươi tuổi, thầy lại không độ, bảo Đức Phật độ được còn tôi thì không độ được. Đấy cũng là giáo hóa theo căn cơ, bởi vì có những cơ duyên Đức Phật độ được, có những cơ duyên chúng ta độ được. Có những cơ duyên mà Đức Phật độ được có những cơ duyên mà đệ tử của Đức Phật mới độ được chứ Đức Phật cũng không độ được. Một câu chuyện bà già thành đông đấy, câu chuyện này thì rất nổi tiếng có một bà lão ở gần ngay bên cạnh chùa, ngay cổng ra vào phía đông của của tịnh xá Cấp Cô Độc và hàng ngày Đức Phật đi qua, chư tăng đi qua mà không bao giờ bà ấy kính lễ ai cả, không bao giờ bà ấy bố thí cho ai một miếng cơm nào cả, cho nên nhiều người ở thế gian bây giờ có người ở ngay sát vách chùa nhưng mà cả năm không sang chùa lễ Phật bao giờ, nhưng mà có những người ở xa xôi vẫn tìm đến, thế nên có duyên thì dù xa mấy vẫn độ được, nhưng mà vô duyên -vô duyên đối diện bất tương phùng, quả thật là vô duyên mà gặp mặt cũng không độ được, và trường hợp cái bà lão này cũng vậy. Đức Phật đã một lần định muốn độ cho bà ấy, nghĩ rằng là bà ấy sống cô độc một mình, không chồng không con, và cái chết đã cận kề nếu mà không được được học Phật pháp, không đươc độ sẽ dẫn đến bà có cái ác cảm với Phật, ác cảm với cả chư tăng, và cái ác cảm ấy sẽ đọa vào địa ngục. Đức Phật đã quyết định tới để hóa độ. Đứng trước cửa nhà bà, bà đóng sập cửa hàng không mở cửa. Đức Phật là dùng thần thông hiện thân trước mặt bà, hiện đằng đông thì bà cũng ngoảnh sang đằng tây, hiện đằng nam bà ngoảnh sang đằng bắc, và cuối cùng bà ấy hiện ra cả bốn phía mà không làm thế nào được bà úp mặt vào tường không muốn nhìn thấy Phật. Và Đức Phật nói rằng là không có duyên để độ cho bà ấy. Cuối cùng Đức Phật xem xét tất cả những hàng căn cơ đệ tử xem có ai có thể độ được và lúc bấy giờ Đức Phật phát hiện ra rằng là ngài La Hầu La lúc bấy giờ mới đi xuất gia đến tám đến chín tuổi có thể đổ được bà này. Thế mà Đức Phật gọi La Hầu La đến nói rằng là mai con hãy độ cái bà lão ở ngoài cổng kia đi, La Hầu La bảo con đâu có biết Phật pháp con biết gì mà con độ được, bảo con cứ sáng mai con cứ cầm bình bát đi qua nhà bà ấy và đứng ở trước cửa, chỉ cần thế thôi. Và La Hầu La lập tức hôm sau bưng bát đi qua cửa nhà bà đứng. Bà trông thấy một chú bé rất là xinh xắn tay bưng bát đi khất thực là lập tức mở cửa bà chạy ra, rồi bà ôm và hỏi thăm là con cái nhà ai tại sao lại đi tu thế này, bà rất thích trẻ con. Thế rồi bà dắt vào nhà bà lấy cơm cho ăn, rồi nhân đó mà mà ngài La Hầu La nói rằng là cái người hôm qua đến chính là thầy của ngài. Chứ bây giờ mà muốn quy với với La Hầu La phải quy với thầy của Thầy của ngài. Bắt buộc bà phải đến quy với Đức Phật và lúc bấy giờ Đức Phật mới độ. Đức Phật sau mới nói tại sao bà ấy ghét, không phải riêng ghét về Đức Phật đâu, ghét chư tăng, mà bà ấy còn ác cảm với đàn ông, bà ấy lúc trẻ bị lừa tình rất nhiều lần, và nhiều lần lấy chồng và có con đều đều bị người ta lừa rồi cuối cùng con cũng bị người ta cướp mất, cho nên bà sống trong cô độc và oán hận. Bất kể những người đàn ông nào đến, bà đều oán. Cho nên bà không phân biệt đó là Phật hay tăng, nhưng mà bà ấy rất mến trẻ con nên bà ấy trông thấy La Hầu La là bà thích luôn. Đấy chính là cái nhân duyên đấy, cho nên sự hóa độ của Đức Phật là phải xét thấu tận căn cơ như vậy, Đức Phật nói là ai có duyên với Phật thì Phật sẽ độ, mà ai không có duyên với Phật thì Phật tạo cái cơ hội nhân duyên cho đệ tử của Đức Phật hóa độ. Trước khi nhập biết mà Đức Phật nói rằng những cái gì cần giảng, những gì cần nói thì ngài đã nói hết rồi, cho nên ngài có sống thêm nữa cũng không có tác dụng gì cả, bởi vì ai có duyên mà để ngài hóa độ ngài đã hóa độ hết, mà đã hóa độ hết rồi thì ngày có sống thêm nữa cũng không giải quyết được, cho nên ngày mới nhập niết bàn, đây là một lý do. Lý do thứ hai nữa là gì những người mà chưa được ta hóa độ, thì ta tạo nhân duyên để cho đệ tử của ta sau này hóa độ. Và như thế mới làm cho chính pháp của ta tồn tại lâu dài, cho nên mặc dù ngày nay chúng ta học Phật, chúng ta không có duyên với với vị tăng này thì có duyên với vị ni kia, không có duyên với thầy này thì có duyên với thầy kia. Bất kể duyên gì, thuận duyên hay nghịch duyên đều là duyên Phật pháp, và nếu duyên Phật pháp ấy là duyên chân chính, thì như chúng ta đã học và đã hiểu, sớm muộn gì chúng ta vẫn được độ ở trong Phật pháp. Ngày nay chư tăng với Phật tử kết duyên với nhau, các vị vì chúng tôi cũng là pháp duyên từ nhiều đời nhiều kiếp, đời này kết duyên pháp duyên với nhau cũng là để đời sau được độ. Nếu vị nào mà sớm thành vô thượng chính đẳng chính giác, thì chắc chắn sẽ quay trở lại đội với những người đã có duyên với mình ở trong Phật pháp từ đời này hoặc đời khác. Và đấy chính là nhân duyên ấy mà Phật pháp hóa độ. Cho nên, sự giáo hóa của Đức Phật dựa trên ba nguyên tắc, chúng ta biết là nguyên tắc là theo căn cơ, phương tiện và tinh thần bình đẳng.
Chúng ta sang cái phần thứ hai đó là nói về ngũ thời thuyết pháp của Đức Phật, năm thời nói kinh.
Kinh văn:
II. NĂM THỜI KỲ NÓI KINH
Tóm lại, trong một đời của Ðức Phật, tùy theo trình độ của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, mãi đến khi Ngài nhập diệt, cộng là 49 năm. Những kinh pháp của Ngài nói ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời:
1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa Nghiêm
Khi Phật mới thành Ðạo, ở tại cội bồ đề, nói Kinh Hoa Nghiêm 21 ngày. Vạch rõ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của đạo Phật, chủ đích có hai điều:
a) Dẫn dắt các bậc Bồ tát lên địa vị Ðẳng giác và Diệu giác.
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của Như Lai, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ mà thôi; ngoài ra hàng nhị thừa ngồi nghe như đui, như điếc, huống chi ngoại đạo, tà giáo làm sao hiểu nổi! Ðức Phật trình bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo Ðại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo.
2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A Hàm
Biết rằng: “Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp”, đức Thích-Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam thừa. Vì vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm trọn 12 năm, dùng thí dụ thật tế, chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu thừa dễ thừa nhận, mà lo bề tự tu và tự độ.
3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Ðẳng.
Đạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần mình mà Ngài còn chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thừa (A-la-hán), để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của Ðại thừa Phật giáo. Ấy là thời nói Kinh Phương Ðẳng trọn 8 năm, dẫn Tiểu thừa qua Ðại thừa.
4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhã.
Ðến khi đức Phật xem căn cơ của chúng sinh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp Ðại thừa, nên Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Ấy là thời kỳ nói Kinh Bát Nhã trọn 22 năm.
5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết-Bàn.
Sự hóa độ một đời của Ðức Phật gần viên mãn, thêm thấy căn cơ của chúng sinh đã thuần thục, có thể gánh vác Ðại thừa Chánh pháp của Như Lai, nên Ngài bèn nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến“. Ngài phú chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành Phật. Ấy là thời nói Pháp Hoa và Niết-Bàn trọn 8 năm. Ðến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sinh của đời Ngài đã viên mãn.
Tóm lại 5 thời thuyết pháp, cổ nhơn có làm bài kệ như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
Pháp Hoa Niết-bàn cộng bát niên.
DỊCH NGHĨA:
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày
A Hàm mười hai, Phương Ðẳng tám
Hai mươi hai năm nói Bát Nhã
Pháp Hoa Niết-bàn cộng tám năm.
Từ khi thành đạo dưới gốc cây bồ đề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài giẫm đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.
Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai.
Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho tín đồ các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của các chúng Tăng về những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi sáng.
Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sinh trong 9 tháng nắng ráo; còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Ấn Độ), thì Ngài lại ở luôn trong tịnh xá để an cư kiết hạ.
Ròng rã trong 49 năm như thế, hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sinh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú được tắm gội trong ánh sáng Trí huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có ánh đạo vàng đến, thì tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước ánh bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có cái oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như tiếng hải triều lên, lấn át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.
Ðạo bồ đề từ đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn Độ. Ðức Phật sau khi đã tự giác, đã giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.
Giảng giải chi tiết:
Theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền thì chia bốn mươi chín năm thuyết pháp của Đức Phật thành năm thời. Thực ra đây là do người đời sau chư tổ và đặc biệt là chư tổ Phật giáo trung quốc chia. Chứ bản thân thì Đức Phật thuyết pháp trong bốn mươi chín năm như trên đã nói là theo căn cơ, theo phương tiện và theo sự bình đẳng mà không có phân chia một thời kỳ nào cả. Sự phân chia các kinh điển thành các thời kỳ là do người sau này phân chia, theo quan niệm của Phật giáo Bắc truyền thì Đức Phật thành đạo trong hai mươi mốt ngày, ngồi tiếp tục ở dưới cội cây bồ đề trong hai mốt ngày nhập định và thuyết bản kinh quan trọng nhất đó là kinh Hoa nghiêm, và kinh Hoa nghiêm được thuyết trong đại định. Vì thế lúc bấy giờ thế gian này không có ai nghe được, chỉ có các hàng bồ tát mười phương, tức là hàng bồ tát thập địa để hướng dẫn họ lên quả vị là diệu giác đẳng giác. Theo Phật giáo Đại thừa thì kinh Hoa nghiêm có thể nói đây là một một bộ kinh quan trọng nhất và cũng là tiêu biểu nhất của toàn bộ giáo lý Đại thừa. Bởi vì Hoa nghiêm nói cái gì, Hoa nghiêm nói về duyên khởi, và giáo lý duyên khởi là giáo lý xuyên suốt toàn bộ giáo pháp của Đức Phật. Duyên khởi chẳng qua cũng là nền tảng của nó là Tứ diệu đế thôi. Nhưng mà duyên khởi của Hoa nghiêm là sự lý pháp giới trùng trùng duyên khởi, ở đây chính là Hoa nghiêm. Cho nên sau khi Đức Phật thuyết Hoa nghiêm xong ngài mới thấy chúng sinh nghe giáo pháp của Phật như si như tổng, như câm như điếc không hiểu được, cho nên Đức Phật mới quyết định nhập niết bàn, vào lúc bấy giờ thì Đại phạm Thiên vương mới thỉnh Phật thuyết pháp. Ngài mới đến vườn Lộc uyển để chuyển bến xe pháp luân và nói bài pháp đầu tiên trên nhân gian, đó là kinh Chuyển pháp luân và nội dung của kinh Chuyển pháp luân chính là đại pháp Tứ để.
Thời kỳ thứ hai là thời kỳ Phật nói A hàm, bộ A hàm này tương đương với các kinh điển Nam truyền hiện nay đang phổ biến đó là các bộ Nikaya, thì Bắc truyền gọi đó là A Hàm. Nội dung của Kinh A Hàm, đó là kinh điển nền tảng của toàn bộ giáo lý Đức Phật, cũng chỉ nhằm xoay quanh là Tứ diệu đế, tức là nói về sự thật là khổ, nguyên nhân của khổ, cùng sự chấm dứt khổ đau và con đường đi đến chấm dứt khổ đau. Và con đường đi chấm dứt đến khổ đau ấy chúng ta gọi là đạo đế. Đạo đế bắt đầu từ tứ niệm xứ, tứ chính cần, tứ như ý túc, năm căn năm lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo. Và trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo ấy thì quan trọng nhất chính là triển khai giáo lý bát chính đạo, bắt đầu từ chính kiến, chính tư duy. Đấy chính là con đường của đạo đế, và trong tất cả các kinh này thì những các bộ kinh dài xếp thành là Trường A hàm, những cái bộ kinh vừa gọi là Trung A hàm, những bộ kinh mà nói về các chủ đề lặt vặt gọi là Tạp A hàm, các bộ kinh mà nói về các pháp số từ một đến hai ba bốn cứ tăng dần lại tăng nhất a hàm. A Hàm là nhóm tụ hoặc là gộp lại theo những chủ đề những quan điểm nhất định. Thế thì do căn cơ của chúng sinh khác nhau cho nên là có những cái bài pháp Đức Phật nói khác nhau, và từ những các cái bài pháp này thì ngày nay chúng ta phải chọn cho mình xem là mình hợp với căn cơ nào để tu theo ý cái sự hướng dẫn nào của Đức Phật. Có những bài pháp Đức Phật giảng cho chư tăng, có những bài pháp Đức Phật giảng cho cư sĩ có những bài pháp Đức Phật giảng cho vua chúa, có những bài pháp Đức Phật giảng cho hội chúng, có những bài pháp đức pháp thoại Đức Phật nói khi ngày đi trên đường, gặp những chuyện này chuyện khác thì Đức Phật sẽ nói, và những cái bài pháp mà chúng ta gọi là pháp cú đấy, tức là những cảm hứng ngữ Đức Phật ngâm những các cái câu thơ đoạn thơ, và người ta kết tập thành các cái phần đấy, thì tất cả những cái loại đó nó thuộc về thời kỳ A hàm. A hàm chính là thời kỳ nói về giáo pháp căn bản. Và đây trong đại thừa thì nói đấy là nói về nhị thừa, tức là thanh văn và duyên giác.
Thời kỳ thứ ba ở đây là nói đến là thời kỳ phương đẳng, cho rằng sau khi đã đã học tập cái giáo pháp A hàm, mọi người đã có nhận thức nền tảng căn bản về Phật pháp rồi, thì Đức Phật bắt đầu nâng giáo pháp cao lên, và muốn đưa những hàng thanh văn để tiếp cận với giáo pháp của bồ tát. Ở đây xin giải thích quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, giáo pháp của Đức Phật có năm cấp độ giáo dục. Cấp độ giáo dục thứ nhất là giáo dục về nhân thừa, tức là giáo dục cho cư sĩ Phật tử tại gia sống thế nào để trở thành tư cách một con người xứng đáng để hoàn thành nhân cách làm người ở đời này và cũng gieo được cái nhân ấy để kiếp sau tiếp tục trở lại làm người, giáo pháp đó thuộc giáo pháp nhân thừa. Cái loại thứ hai là thiên thừa, là những người không muốn đời sau trở lại thế gian này và đời sau muốn sinh lên cõi trời, thì Đức Phật dạy cho người ta giáo pháp tu thập thiện, giữ gìn tam quy, có thể sinh lên sáu cõi trời thuộc dục giới, kết hợp với tứ thiền có thể sinh lên cõi trời sắc giới, kết hợp với bát định có thể sinh lên cõi trời là vô sắc giới. Dù là sinh lên cõi trời thì Đức Phật nói rằng vẫn nằm trong sinh tử luân hồi và đấy không phải cái đích rốt ráo mà Đức Phật muốn dắt dẫn dắt người ta tới, cho nên, cao hơn của nhân thừa và thiên thừa thì Đức Phật dẫn chúng sinh đi cái thừa thứ ba, tức là cấp độ giáo dục thứ ba đó chính là thanh văn thừa, để dành cho những người muốn bỏ tục xuất gia và tu trong một đời có thể chấm dứt được sinh tử luân hồi trong ba cõi. Những người cạo đầu xuất gia đi tu như chúng tôi hiện nay, là thuộc về tầng lớp, cấp độ thứ ba là thanh văn. Thanh văn để tu đoạn sinh tử trong tam giới. Mục đích của thanh văn thừa là chỉ đoạn sinh tử trong tam giới và sợ khổ trong tam giới cho nên là không muốn độ sinh, cho nên cái đó gọi là tiểu thừa. Tiểu thừa là cái cỗ xe nhỏ chỉ chở cho mỗi bản thân mình được thôi mà không chở được người khác, người ta cho đó là tiểu thừa. Cao hơn thanh văn thừa là duyên giác thừa, tức là những người tu quán nhân gọi là Bích chi Phật đấy, quả vị là Bích chi Phật cũng nằm trong cái phạm vi là nhị thừa, cũng chỉ là tự độ mà không độ tha. Và cái cấp độ thứ năm giáo dục là cấp độ của bồ tát, ngoài chuyện là tự độ mình cho mình ra khỏi sinh tử còn đem giáo pháp của Phật cứu khổ, độ sinh và những người đó là quyết tâm tu cho đến khi thành Phật. Đây là cái mục tiêu cao nhất và cũng là cuối cùng mà Đức Phật vẫn chỉ dạy.
Năm cấp độ giáo dục này cũng giống như ngày nay chúng ta có giáo dục tiểu học giống như nhân thừa này, trung học cơ sở giống như thiên thừa, trung học phổ thông giống như thanh văn thừa, đỗ hết là tú tài, duyên giác thừa giống như cử nhân và bồ tát đạo nó giống như tiến sĩ. Tức là học đến mức độ đó, đã vượt lên trên tiến sĩ ngày nay gọi là hàn lâm đấy, hàn lâm thì giống như quả vị Phật. Hàn lâm tức là phải biết tất cả mọi vấn đề, thế thì giáo lý của Đức Phật là sự chia ra làm năm cái cấp độ thế gọi là phương đẳng là giai đoạn chuyển cấp từ trung học sang đại học. Và nó có một cái giai đoạn chuyển rất là mạnh thì đây gọi là phương đẳng, phương là phương hướng, đẳng là bình đẳng là rộng lớn và chuyển từ cái nhỏ sang cái lớn và nó là giai đoạn chuyển tiếp, cho nên kinh này gọi là kinh phương đẳng. Khi mà đặt chân vào hệ phương đẳng này rồi tức là học học tốt nghiệp đại học rồi, đấy thì mới có thể học thạc sĩ và tiến sĩ, cho nên mới có thể học đến cái hệ thứ tư là bát nhã, bát nhã là học trí tuệ. Ở đây bát nhã ba la mật, bát nhã là trí tuệ, ba la mật là tới bờ bên kia, tức là trí tuệ giải thoát. Cho nên ví Phật pháp giống như con thuyền, không phải là chở một mình sang sông và chở rất nhiều chúng sinh ở trên đó, đó là con thuyền rộng lớn và độ tận chúng sinh trong biển khổ sinh tử, mà muốn độ tận chúng sinh trong biển khổ sinh tử như thế, thì bản thân cái người đó phải là một con thuyền lớn, phải có đại nguyện, phải có đại lực, phải có đại trí. Nếu không có đại nguyện, không có đại lực, không có đại trí, không có đại bi, thì không thực hiện được cái đó cho nên là mới có hình tượng của bốn vị bồ tát. Như hôm trước đã nói là đại trí phải như Văn thù sư lợi, đại hạnh phải như bồ tát Phổ hiền, đại nguyện thì phải như bồ tát Địa tạng và đại bi phải như bồ tát Quan âm. Phải đủ bốn năng lực này thì sẽ thành một con thuyền lớn và có thể độ hết tất cả chúng sinh. Cho nên nó mới thực hiện được tứ hoàng thề nguyện, mà chúng ta nói là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học và Phật đạo vô thượng nguyệt thành, chỉ có bốn cái lời thề nguyện này thì phải tương ứng với bốn hạnh nguyện của bốn vị bồ tát Trí tuệ, Hạnh nguyện và từ bi thế. Cho nên đó chính là nói đến bát nhã. Và thời kỳ thứ năm là Phật nói kinh Pháp hoa tức là quy tam hiển nhất, đưa tam thừa trở về nhất thừa, tức là đưa thanh văn thừa, đưa duyên giác thừa, đưa bồ tát thừa trở về cái đích cuối cùng là thành Phật. Cho nên kinh Pháp hoa khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Kinh Pháp hoa Đức Phật thụ ký cho hàng thanh văn, thụ ký cho cả nhân thiên, thụ khí cho cả long nữ, và cuối cùng thụ ký cho cả các vị trí khiêu ni, rồi cuối cùng là Đức Phật thụ ký cho cả đề Đề Bà Đạt Đa- người mà ác tâm giết Phật đọa xuống địa ngục A tỳ, vẫn có thể thành Phật. Và đây mới là đích cuối cùng, chư Phật ra đời làm là mục đích đưa tất cả chúng sinh thành Phật, như chư Phật không khác. Đức Phật nói là chúng sinh là Phật chưa thành, ta là Phật đã thành. Mục đích ra đời của chư Phật là muốn cho tất cả chúng sinh tu hành giác ngộ thành Phật, như chư Phật không khác. Năm thời kỳ giáo hóa của Đức Phật chia ra như này mang tính chất tương đối chứ không phải là tám cái năm đó Đức Phật chỉ nói kinh Pháp hoa, hay là hai mươi hai năm ấy là Đức Phật chỉ có nói bát nhã, hiểu như thế là máy móc, đây là cách mà chia theo cái cách gọi là phân loại tương đối thôi, chứ không phải tám năm cuối cùng Đức Phật chỉ có mỗi giảng mỗi một kinh Pháp hoa, với kinh Niết bàn. Chúng ta biết rằng kinh Niết bàn, Đức Phật nói có đúng có một ngày thôi, trước khi Đức Phật nhập niết bàn nói có một ngày thôi. Thế còn như thế là tám năm có nói một bộ kinh pháp hoa?! Không phải, hoặc là hai mươi hai năm chỉ nói mỗi bộ kinh đại bát nhã tám trăm quyển cũng không phải. Đức Phật giáo hóa bình đẳng cho nên người thượng căn thượng cơ ấy thì nó chính là Pháp hoa, nó chính là Bát nhã, nhưng mà người hạ căn hạ cơ thì nó chính là A hàm và Phương đẳng. Tôi nói một cách đơn giản thế này, trong lớp học chúng ta bài pháp của tôi nói là bình đẳng, không cao thấp nhưng mà căn cơ của các vị khác nhau, có những người là tôi nói một nhưng mà các vị hiểu mười, thì cái người mà nói một hiểu mười ấy chính là các vị đang nghe trong thời Bát nhã và Pháp hoa. Còn người mà tôi nói mười câu mà chưa chắc đã hiểu được một câu thì người đó đang thuộc nhóm gọi là A hàm, hạ căn hạ cơ. Pháp của Phật không có cao thấp, không có chia ra thời kỳ, mà cao thấp hay thời kỳ là do căn cơ của người tiếp nhận, do cái cái sự nghe. Mỗi người nghe và hiểu khác nhau và do sự hiểu khác nhau thì dẫn đến suy luận giáo Pháp của Đức Phật khác nhau, dẫn đến cái sự sai biệt. Cho nên là trong kinh Pháp hoa nói là mưa thì không có phân biệt, nhưng mà cây cối thì tùy theo to nhỏ khác nhau mà tiếp nhận nước mưa có khác nhau. Xuân vũ vô cao hạ, mai chi tự đoản trường. Mưa xuân không có cao thấp, không có phân biệt, nhưng cây cối thì to nhỏ khác nhau, pháp của Phật vốn bình đẳng, nếu người căn cơ lớn thì sẽ giác ngộ lớn, hiểu thấu triệt, người căn cơ thấp thì thấy pháp đó nó trở thành thấp, thấp hay cao, lớn tay bé, thời kỳ nào thì đều phụ thuộc vào căn cơ của chúng sinh, chứ không phụ thuộc vào giáo pháp. Còn chúng ta phân chia là mang tính chất tương đối thôi. Ví dụ như là một người học lớp một, cũng là bài giáo trình lớp một đấy nhưng mà cái cái học sinh mà cháu bé nó mới đi học, nó đọc cái bài ấy là với khả năng của nó là nó hiểu như thế là đúng, nhưng mà một người tiến sĩ người ta vẫn có thể đọc cái bài học lớp một, nhưng mà cái hiểu của cái người tiến sĩ ở cái bài học của người lớp một ấy là vô cùng vô tận. Thì nó lại trở thành pháp đại thừa, đại thừa ở chỗ đấy. Nhưng mà cái người lớp một thì chỉ học một biết một thôi chứ không có biết hai, thì nó thành lớp một, mà còn cái người mà cũng bài lớp một người ta học một biết mười thì nó thành vô lượng nghĩa. Phật pháp gọi là vô lượng vô biên chính ở chỗ này, thực ra pháp của Đức Phật chỉ có một thôi. Nói rằng tất cả nước biển đều có vị mặn thì tất cả giáo pháp của Đức Phật có một vị duy nhất thôi, đó là vị giải thoát. Nếu chúng ta nếm được vị giải thoát này thì đọc kinh nào cũng có giá trị như nhau cả, chỉ cần bài kinh ấy, chỉ cần pháp tu ấy nó phù hợp với căn cơ của chúng ta, nó phù hợp với điều kiện rồi chúng ta, phù hợp với hoàn cảnh của chúng ta, mà giúp cho chúng ta được bình an, cho chúng ta được hạnh phúc, giúp chúng ta chúng ta tiêu trừ được phiền não tham sân si, thì bài pháp ấy là tối thượng bài pháp, là tối thượng thừa. Bảo là kinh Hoa nghiêm là tối thượng thừa mà chúng ta đọc chúng ta cũng không hiểu, tụng chúng ta cũng không hiểu, tu chúng ta cũng không tu được, thì đối với chúng ta không có tác dụng gì cả. Nó thượng hay không thượng không phải ở bài pháp, mà ở cái tâm tiếp nhận của chúng ta, và sự hiểu ngộ của chúng ta và sự áp dụng của chúng ta trong đời sống hàng ngày.
Cũng chuẩn bị đến ngày khánh đản của Đức Phật A Di Đà, mười bảy tháng mười một và trong suốt thời gian này chúng ta còn có ngày kỷ niệm mồng tám tháng chạp, là ngày đức bản sư Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Chúng tôi cũng mong các Phật tử chúng ta hướng đến hai ngày kỷ niệm của hai đức từ phụ, nỗ lực hơn nữa, tinh tiến hơn nữa, trong việc tu nhân, học Phật, ăn chay, phóng sinh, làm phúc để cầu cho mình được tiêu trừ nghiệp chướng và cầu cho thế giới được hòa bình, bệnh dịch được tiêu và chúng ta tìm thấy được con đường an vui, hạnh phúc cho chính mình, nhờ vào sự soi sáng giáo pháp của chư Phật.
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2 LƯỢC SỬ CỦA ĐỨC PHẬT ( PHẦN TIẾP THEO )
. Giảng sư: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT Viện chủ chùa Đại Từ Ân.
Được Công chiếu trực tiếp 20 giờ tối chủ nhật 19/12/2021 Trên kênh YouTube , Facebook Chùa Đại Từ Ân.



