LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 3: LƯỢC SỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA TỪ THÀNH ĐẠO ĐẾN NIẾT BÀN ( Phần Tiếp Theo )

Phần 02

Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô A Di Đà Phật.

Kính thưa đại chúng, hôm nay chúng ta tiếp tục bài thứ Ba về Lược sử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ thành đạo đến Niết bàn, hôm trước chúng ta đã đi được phần một lớn, hai lớn, hôm nay tiếp tục phần ba lớn là sự hóa độ viên mãn. Xin mời các vị đọc bài.

Kinh văn:

III. SỰ HÓA ĐỘ VIÊN MÃN

Từ khi thành đạo dưới gốc cây bồ đề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Ðức Phật đã đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài giẫm đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng.

Mỗi ngày Ngài theo một thời dụng biểu, một chương trình nhất định, không bao giờ xao lãng, giải đãi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi trời chưa sáng, Ngài đã lìa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi vào phòng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai.

Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho tín đồ các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của các chúng Tăng về những vấn đề mà Ngài đã thuyết pháp buổi sáng.

Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sinh trong 9 tháng nắng ráo; còn ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Ấn Độ), thì Ngài lại ở luôn trong tịnh xá để an cư kiết hạ.

Ròng rã trong 49 năm như thế, hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam, từ Ðông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sinh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được nhân dân, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú được tắm gội trong ánh sáng Trí huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có ánh đạo vàng đến, thì tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như những bóng tối, tan biến trước ánh bình minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có cái oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như tiếng hải triều lên, lấn át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc.

Ðạo bồ đề từ đây đã ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn Độ. Ðức Phật sau khi đã tự giác, đã giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đã viên mãn.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nói đến sự hóa độ viên mãn của Đức Phật. Viên mãn phải hiểu theo nghĩa là giáo pháp viên mãn. Giáo Pháp của Phật không phải đến khi Đức Phật nhập niết bàn Ngài mới thuyết giảng một cách viễn mãn, mà ngay từ thời Pháp đầu tiên thì sự thuyết pháp của Đức Phật đã viên mãn rồi. Cho nên bất kể một bản kinh nào mà Đức Phật thuyết pháp, chúng ta phải hiểu như vậy đều viên mãn cả. Cho nên là trong kinh nói là sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Ban đầu là tốt đẹp, quãng giữa là tốt đẹp và kết thúc của bản kinh cũng là tốt đẹp đấy. Nói trong một bản kinh là sơ trung, hậu thiện, tức là phần mở đầu, phần chính thuyết, và phần lưu thông đều tốt đẹp. Nếu nói trong cả cuộc đời thuyết pháp của Đức Phật thì thời kỳ ban đầu, thời kỳ giữa và về thời kỳ kết thúc đều viên mãn. Ở đây viên mãn nó có hai cái nghĩa. Thứ nhất là mỗi một bài pháp đều viên mãn. Nó viên mãn ở chỗ nào. Bất kể một bài pháp nào của Đức Phật, đều giúp cho cái người, đối tượng nghe, đối tượng mà được Đức Phật hướng tới để mà giáo hóa. Cho nên chúng ta nói là giáo hóa theo căn cơ, giáo hóa theo phương tiện, thì tất cả những trường hợp ấy đều trở nên viên mãn, tức là sau khi người ta đã nghe Pháp mà Đức Phật thuyết xong, họ đều có thể thực hiện được và họ đã tìm được an lạc, hạnh phúc ngay trong cuộc đời hiện tại. Đối với các bậc tu hành thì có thể chứng được Thánh quả ngay trong hiện tại, cái đó mới là viên mãn. Còn nếu mà giáo pháp mà chỉ là cao siêu, huyền diệu, nghe cho nó vui tai mà không đem lại kết quả thực tiễn thì không thể gọi là viên mãn. Viên mãn là  đến để mà thấy, thiết thực trong hiện tại. Cái quan trọng của nó là thiết thực trong hiện tại, cái quan trọng của nó được bậc có trí tuệ người ta khen ngợi. Cho nên pháp của Phật là để cho người thấy, người biết, người hiểu, chứ không phải là dành cho những người mà không thấy, không biết, không hiểu. Chỉ có những người có đủ khả năng thấy biết, hiểu thì mới có thể đem lại cái kết quả hiện tại. Chúng ta ngày nay học Phật pháp có được viên mãn hay không? Đó là không phải ở cái chỗ là các giảng sư, giảng có hay không, cũng không phải là ở những cái bài pháp pháp ấy chúng ta gọi là vi diệu, mầu nhiệm quá, chúng con nghe thấy sung sướng quá, nhưng mà sung sướng xong để đấy thì đấy không viên mãn. Nó mới chỉ viên mãn ở cái chỗ nghe thôi, tức là văn mà ta chưa viễn ở chỗ tư, mà nó chưa viên mãn ở tu. Pháp của Phật chỉ có thể viên mãn khi người nghe đấy thực sự tiếp nhận, được thực sự hiểu được và thực sự là hành chỉ được và đem lại kết quả trong hiện tại. Cho nên khi Đức Phật, không riêng gì những những hàng xuất ra mà tại gia cũng chứng được sơ quả, nhị quả, tam quả và thậm chí có những người là chứng ngay tứ quả, tức là chứng ngay quả vị A La Hán ngay trong đời hiện tại. Cho nên điều đó mới gọi là viên mãn. Đức Phật nói là sơ trung hậu thiệt, trong kinh chư Tổ giải thích nó giống như một cái cục mật ấy, thì cái bên ngoài của nó cũng ngọt như thế, cái quãng giữa của nó cũng ngọt như thế, thái đến cái miếng mật cuối cùng , miếng đường cuối cùng thì nó cũng ngọt như như miếng ban đầu, tức là ban đầu giữa và rốt ráo đều viên mãn. Vì thế có một cái câu nói là nước của tất cả biển cả thì đều có vị mặn, còn giáo pháp của Đức Phật thì hết thầy đều có vị giải thoát. Vì vậy chúng ta phải hiểu một cách là giáo pháp bình đẳng ở chỗ này. Không có cao thấp, không có pháp môn tu nào đấy, hơn pháp môn nào cả, nó chỉ có thể trở thành Pháp tối thượng với người này, hay người kia, là do căn cơ của họ có nghe, hiểu, thực hành và chứng tỏ được hay không mà thôi. Cũng giống như là thuốc chữa bệnh ấy, không có cái thuốc nào là quý hơn thuốc nào cả. Nếu mà chữa được khỏi bệnh thì dẫu là cỏ dại vẫn là thần dược, còn nếu mà chữa mà không đúng bệnh, thì dẫu là nhân sâm vẫn có thể chết người. Phải hiểu pháp của Phật là như vậy, tức là pháp nó phải phù hợp với căn cơ, nó chữa được khỏi cái bệnh gì cho chúng ta khỏi cái bệnh phiền não, khỏi cái bệnh khổ đau, là cái quan trọng là ra khỏi được luân hồi sinh tử, thì đấy mới là sự viên mãn. Còn mà tất cả các loại giáo pháp, tất cả các loại lý thuyết ở trên đời, nói cho nó vui, nói cho nghe cho nó hay cho nó vui tai, nhưng mà thực hành không được, nói nó cao quá, người thực hành cũng không thực hành được, và rồi có thực hành cũng không đem lại kết quả, thì đấy không phải là giáo pháp đem lại lợi ích. Cho nên giáo pháp của Đức Phật là đem lại lợi ích ở chỗ này. Vì thế một ngày công việc làm của Đức Phật thì chúng ta biết rồi, Một đêm Ngài chỉ có nghỉ khoảng độ hai tiếng, hai tiếng rưỡi, Nửa đêm đến sáng ngày còn thuyết pháp cho Chư Thiên, sáng Ngài còn phải nhập định để quán cơ xem hôm nay độ cho ai, căn cơ của ai thuần thục có thể độ được, thì Đức Phật chủ động đến hóa độ. Buổi sáng thực ra là Đức Phật thường đi khất thực với chư tăng. Trong sinh hoạt thường ngày thì cứ khoảng độ 5 ngày, Đức Phật sẽ có một ngày không đi khất thực, để khi mà đại chúng mà đi khất thực hết thì Đức Phật ở nhà, làm cái việc gì, đi kiểm tra lại trụ xứ, xem có bị tỳ khiêu nào già, bệnh ốm yếu cần phải chăm sóc hay không. Và đã có rất nhiều trường hợp Đức Phật đã đích thân tắm gội cho một vị tỳ khiêu bị bệnh, mà không ai chăm sóc, giặt y phục, tắm rửa, đắp thuốc, thậm chí là khâu xỏ kim, khâu vá giúp cho các vị tỷ khiêu bị y phục rách. Cho nên mới gọi Đức Phật là đấng từ phụ, đấng cha lành của hết cả chúng sinh. Ngài quan tâm đến cái sự tu học của những người mới vào, người già, người bệnh, năm ngày đi kiểm tra gọi là trụ xứ đấy. Chư tăng sinh hoạt mấy cái mục đích, là để tránh cho chư tăng là không rơi vào cái tình trạng là bỏ bê cái sự tu tập, tránh cho chư tăng là tập trung nói chuyện lý luận, khiến cho những người mới tu thấy nghi của Phật thì khởi lên cái tâm cúng kính. Tư là à để chăm sóc những người già bệnh. Và thứ năm ấy là để nhắc nhở chưa tăng sinh hoạt cho đúng quy định. Chính vì vậy cứ năm ngày này sẽ đi kiểm tra nơi ăn ở, sinh hoạt của chưa một lần đấy. Gọi là đi tuần liêu, tức là kiểm tra cái sự ăn ở, sinh hoạt. Buổi sáng ban ngày đi thuyết pháp ấy, thì hoặc là có các gia đình Phật tử thời Đức Phật cũng đã có rồi, sửa soạn trai tăng để cúng giàng Đức Phật và chư tăng. Những gia đình mà có các cái công việc như là về nhà mới đấy, cũng có trai tăng để cúng giàng Phật và chư tăng. Hoặc có những trường hợp ngày xưa là trong kinh nói là, ngày nay giống như là trẻ đầy tháng đấy. Cũng có trường trường hợp là trai tăng cúng giàng để Đức Phật đến rồi thuyết pháp chúc phúc cho đứa trẻ. Có những gia đình là con cái đi lấy chồng, đi lấy vợ. Thế rồi những người buôn bán, thương nhân đi làm ăn xa, thì trước khi đi họ đều có con trai tăng cúng giàng. Và Đức Phật và Chư Tăng đều có tới dự dự. Hoặc những nhà người ta có giỗ kỵ, như là trong kinh, nói là vua Ba Tư Lặc giỗ thân phụ, mời Đức Phật là 1200 Thánh Tăng La Hán đến để cúng đường trai Tăng. Thế thì tất cả những cái việc Trai Tăng như Pháp như thế, Đức Phật đều tới dự, cũng như là chư Tăng tới dự. Hoặc Đức Phật là sai người đi theo cái sự thỉnh cầu của thí chủ. Bởi vì có những người nhà gia đình người ta có điều kiện thì người ta thỉnh đông, gia đình mà có ít điều kiện gì thỉnh một hai người, thì lúc bấy giờ chư Tăng sẽ phân phái, ai đi thụ thỉnh thì đi thụ thỉnh, còn ai đi khất thực thì cứ đi khất thực. Thường sau những buổi pháp như vậy, sau những buổi cúng trai tăng như vậy thì chúng ta biết là Đức Phật mới tùy nghi thuyết pháp. Trong giáo pháp của Đức Phật là không bao giờ ngài thuyết trước, rồi mới thụ trai sau. Sở dĩ tôi nói một cái điểm này là bởi vì ngày nay chúng ta nhiều lúc có trai tăng nhưng mà chúng ta đang làm ngược. Nếu mà thuyết pháp rồi mà người ta mới cúng giàng cho Đức Phật ăn là không bao giờ Đức Phật nhận ăn cả, và Đức Phật cũng không cho phép chư Tăng thuyết Pháp rồi mà người ta mới cúng cho ăn thì không được phép nhận. Lý do là Đức Phật nói rằng như thế là bán rẻ giáo pháp để lấy bữa ăn. Do đó, Phật tử tín đồ ngày xưa phải cúng dường cho Phật, cúng dàng  cho chư tăng. Ăn xong rồi thì tùy nghi, lúc bấy giờ có điều gì thắc mắc, có điều gì thưa hỏi thì tùy nghi thưa hỏi, lúc bấy giờ Đức Phật mới khai thị, hoặc giả là cần Đức Phật và Chư Tăng chúc phúc cho công việc mà họ sửa soạn Trai nghi thì Đức Phật và Chư Tăng sẽ đọc một bài kệ chúc phúc. Ví dụ như là chúc phúc trong trường hợp nhà mới thì có một bài kệ chúc phúc cho nhà mới nó được yên ổn, hoặc là đứa trẻ mới sinh ra để chúc phúc cho nó được thông minh, mạnh khỏe, ít bệnh. Hoặc là những người mà chuẩn bị đi xa, làm ăn, buôn bán, đi học, đi hành, được chúc phúc. Hoặc là người Nữ về nhà chồng cũng có những bài kệ chúc phúc. Tất cả những cái đó đều có kệ chúc phúc hết. Có một câu chuyện chúng ta biết rằng, trưởng giả Cấp Cô Độc là đệ tử tại gia có uy tín và ông này rất giàu có. Trong lòng của ông trưởng già này rất phiền muộn về chuyện cô con dâu, cô này là trưởng giả cưới cho con trai của mình. Cô này là xuất thân ngoại đạo, không phải là đệ tử của Đức Phật và cô này không muốn quy y Phật vì gia đình nhà cô cũng là gia đình giàu có, môn đăng hộ đối cho nên là cô này rất hống hách và về nhà là quản lý việc nhà, rồi sai phái kẻ ăn người ở rồi cũng có ý là coi thường cả chồng và gia đình nhà chồng. Thế thì hôm đó Đức Phật có đến nhận lời mời của trưởng giả Cấp Cô Độc đến để thụ trai. Trong khi trưởng giả đang dâng cơm nước cho Đức Phật thì cô con dâu ở dưới rất vô ý là quát tháo kẻ ăn người ở. Tiếng quát áo của cô ấy vọng lên cả trên trai đường, khiến cho Đức Phật và Chư tăng lúc bấy giờ phải ngưng lại bởi tiếng quát tháo rất là thô. Chúng ta ngày nay nếu gia đình mà có công có việc, trong nhà có những người ồn ào lớn tiếng là cũng mất mặt lắm. Lúc bấy giờ là ông trưởng giả rất xấu hổ ra xin xám hối và xin lỗi Phật và chư tăng vì cái sự thô tháo của con cô con dâu này. Đức Phật có bảo Ngài trưởng giả Cấp Cô Độc gọi cô ấy lên để Đức Phật giáo huấn. Nhưng mà cô này chưa quy y Phật, cho nên là cô ấy bướng cô ấy cũng không lên và khi được ông trưởng giả nhắc nhở thì cô im lặng, cô ấy ngồi trong phòng và cô không trực tiếp ra. Bấy giờ Đức Phật có nói về một câu chuyện, Đức Phật giảng kinh gọi là Kinh Bảy loại vợ. Đức Phật nói rằng có cái những người vợ thì như là con gái, vợ như em gái, vợ như bạn bè, có vợ như là La sát, vợ như là kẻ cướp, vợ như là bà chủ này…  và Đức Phật nói đúng cái tâm lý của cô này. Cô nghe xong, cô ở trong phòng và cô ấy không nhịn được cái sự xấu hổ, Đức Phật không có quở trách, Ngài chỉ giảng như thế thôi. Nhưng mà cái tiếng giảng của Đức Phật, muốn khai thị cho cô, cho nên là dùng cái âm thanh, dù cô muốn bịt tai lại, cô vẫn vẫn nghe rành rõ từng câu, từng chữ một. Sau khi nghe hết cái bài Pháp đó, cô ấy xấu hổ ra xin sám hối Đức Phật và chư tăng, xin lỗi gia đình ông trưởng giả về cách ứng xử thô tháo của mình, và phát nguyện từ nay trở đi, trong bảy cái loại vợ ấy thì cô ấy sẽ chọn một loại là sẽ trở thành một cái người vợ hiền thục như người bạn đời của người chồng, cung phụng gia đình nhà chồng và cô ấy xin quy y Đức Phật. Đây là một câu chuyện rất cụ thể, tức là sau khi dùng cơm xong Đức Phật mới thuyết pháp. Nhưng ngày nay thì chúng ta phần lớn là thỉnh tăng đến làm việc rồi giảng kinh thuyết pháp rồi, lúc bấy giờ mới cùng ăn thì cái này là trái với những cái điều mà Đức Phật xưa kia đã làm, Đức Phật không cho phép làm như vậy. Như thế Đức Phật cho rằng giảng kinh thuyết pháp rồi mới cúng cho ăn, thì cả cái người cúng và cái người nhận ăn đều là trái pháp, là như thế là bán pháp, đổi giáo pháp lấy bữa ăn. Còn đối với người tại gia, trước phải dùng tài thí, tức là cúng dàng tài thí trước, cúng dàng tứ sự, cúng dàng trước rồi Phật và chư tăng ấy sẽ bố trí lại, tức là cúng giàng lại cho người tại gia bằng giáo pháp. Tại gia thì thực hiện cúng giàng tài thí. Còn người xuất ra thì thực hiện pháp thí. Nhưng mà tài thí phải làm trước, pháp thí mới làm sau. Đây là pháp của Phật. Còn nói về quy định an cư ba tháng thì chúng ta biết rồi. Cái này có từ thời Đức Phật và Đức Phật đã an cư. Mùa an cư đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, sau khi đã chuyển bánh xe Pháp luân giảng kinh Tứ diệu đế cho năm vị tôn giả, nhóm ông A Nhã Kiều Trần Như và khi đó Tăng Bảo đã được hình thành. Pháp Bảo đã được vận chuyển và Phật Bảo đã hiện diện, đó là đánh dấu là Tam Bảo xuất hiện ở trên đời. Vì vậy, theo thật giáo Bắc truyền lấy ngày mùng 8 tháng Chạp là ngày Phật bảo, tức là ngày Đức Phật thành đạo. Nhưng mà lấy cả cái ngày mùng 8/4 là ngày Phật đản là Phật bảo. Theo Phật giáo Bắc truyền thì Đức Phật giảng cái bài Kinh đầu tiên là vào rằm tháng riêng. cho đến ngày rằm tháng Giêng là ngày Pháp bảo và ngày tăng bảo chính là ngày chư tăng tự tứ và theo Phật giáo Bắc truyền thì ngày tăng bảo là ngày rằm tháng 7. Chúng ta có ba ngôi Tam Bảo – Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, có ba cái ngày kỷ niệm- ngày Phật bảo là ngày kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo, ngày Phật nhập biết bàn. Những ngày liên quan đến Đức Phật đều là ngày Phật bảo hết, ngày Pháp bảo là ngày Đức Phật chuyển bánh xe Pháp Luân lần đầu tiên là ngày rằm tháng riêng. Cho nên là trong văn hóa chúng ta bảo lễ cả năm không bằng lễ rằm tháng riêng, và rằm tháng riêng ngày xưa là sau khi lễ Phật xong người ta mới khai kinh để biểu thị là cái ngày khai pháp đó là chuyển bánh sang pháp luân. Và ngày Tăng bảo, tức là ngày Tết của chư tăng, tức là chư tăng sau khi kết thúc ba tháng ăn cư, 16/4 thì kết thúc vào 15/7 mà ngày đó chính là ngày chư Tăng được thêm một tuổi đạo mới, ngày đó ngày tự tứ. Còn theo Phật Giáo Nam Truyền, chúng ta biết rằng ngày Phật bảo, ngày Pháp bảo, là đều chung một ngày 15/4, Đức Phật Đản sinh ngày 15/4, nhập niết bàn cũng 15/4 và chuyển bánh xe Pháp Luân cũng là ngày này. Phật Giáo Nam truyền an cư vào ngày 16/6, đó là ngày Pháp bảo, và ngày Tăng bảo của Phật giáo Nam truyền là ngày 16/9 âm lịch. Ở đây là hai truyền thống Nam truyền và Bắc truyền có khác nhau cái chỗ này, cho nên Bắc truyền là Đức Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, và Nam truyền là Đức Phật giảng kinh thuyết Pháp 35 năm. Cho nên ở đây nói là 49 năm ròng rã như thế, Đức Phật đã đem cái hạt giống từ bi trí tuệ của ngài để mà hóa độ khắp cả cõi Ấn Độ, khiến cho những người có duyên với Phật gặp được Phật, nghe Phật thuyết Pháp đều có thể bỏ ác làm lành, bỏ mê để về giác. Và cái kết quả cuối cùng là bỏ phàm vào thánh.

Chúng ta sang phần thứ tư là trước khi nhập niết bàn. 

Kinh văn: 

IV. TRƯỚC KHI NHẬP NIẾT-BÀN

1 – Phật báo tin sắp lìa đời.

Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa-la trong xứ Câu-ly, cách thành Ba-la-nại chừng 120 dặm.

Một hôm Ngài gọi ông A-Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:

-“A-Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cỗ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở Pháp, nay xe đã vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn”.

Tin đức Phật sắp vào Niết-bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần-Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần-Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần-Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A-Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như cái nạng), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phiá tay phải, mặt xây về phía mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết-bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu-bạt-đà-la đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.

2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca-Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:

a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-ha Ca-Diếp.

b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm thầy.

c) Ở đầu các kinh phải nêu 4 chữ: “Như thị ngã văn”.

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:

– Một phần cho thiên cung,

– Một phần cho long cung,

– Một phần chia cho 8 vị quốc vương ở Ấn Độ.

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đã để lại trong giờ phút cuối cùng.

-“Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở  một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.

– “Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.

Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết-bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai âm lịch (theo giáo sử Trung Hoa).

Rừng cây sa la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào trong kim quan và 7 ngày sau, đưa kim quan Ngài vào thành Câu-Thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).

Tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tướng dũng đến toan tranh giành xá lợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia xá lợi đều được ổn thỏa.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nói đến sự kiện Đức Phật nhập Niết Bàn, chúng ta biết rằng là ở đây có liên quan đến chuyện Đức Phật thông báo trước ngày nhập biết là ba tháng. Đối với người đời chúng ta thì thường có câu là sinh có hạn tử bất kỳ, tức là thời gian lúc sinh thì người ta có thể là biết trước được. Tính từ lúc thụ thai đến lúc sinh ra trong khoảng là 9 tháng 10 ngày, tính được cái khoảng sinh ra. Bây giờ thì can thiệp công nghệ cũng có thể là định sinh ngày nào thì người ta cho đứa trẻ sinh ra ngày ấy được. Nhưng cái ngày chết là chúng ta không định được, trừ các bậc tu chứng, có thể biết trước ngày giờ ra đi, nhưng mà số này rất ít. Gần đây có những người chuyên tu tịnh độ cũng có một vài trường hợp biết trước ngày giờ, còn phần lớn Đức Phật và chư tổ chứng đắc thì các ngài có thể gọi là sinh tử tự tại. Cho nên muốn kéo dài tuổi thọ đến bao nhiêu thì thì kéo dài, và muốn ra đi lúc nào thì ra đi. Ở đây trong kinh có nói một vấn đề thế này, một hôm Đức Phật ngồi với ngài A Nan có ngụ ý nói bóng gió để ngài A Nan về chuyện chuẩn bị, Đức Phật nói thế này: này A Nan nếu người nào mà tu chứng vô thượng chính đẳng chính giác, thuần thục trong các thiền pháp và tứ như túc, thì có thể kéo dài tuổi thọ một kiếp hay hơn một kiếp tùy theo ý muốn. Và Đức Phật nói cái câu đó tới ba lần, nhưng mà ngài A Nan không hiểu được ý của Đức Phật, cho nên là không thỉnh Đức Phật trụ thế. Vì thế tại sao ngày nay chúng ta tu học là trong mười hạnh Phổ Hiền là thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân. Đấy là một bài học phải luôn luôn thỉnh các bậc giác ngộ, các bậc thánh nhân cho đến các bậc hòa thượng A Sa Lê, các bậc thiện tri thức trụ lại ở đời lâu hơn nữa để tiếp tục thuyết pháp độ sinh. Nếu mà nói gợi ý như vậy thì ngài A Nan không nói gì. Ngài có thể dùng năng lực của ngài kéo dài tuổi thọ cho đến một kiếp hay hơn một kiếp. Một kiếp ở đây tức là một đại kiếp – tức là nó bằng cái thời gian của cả trái đất này. Nếu mà ngài A Nan lúc đó thỉnh ý thì chắc là Đức Phật vẫn còn cho đến bây giờ. Nhưng mà vì ngày A Nam không thỉnh, cho nên Đức Phật nhập Niết Bàn. Sau đó ngài A Nan không nói gì, Đức Phật mới nói ba lần như vậy thì Phật mới bảo thôi A Nan ông có việc gì thì ông đi làm đi.  Thế rồi ngài đã ra đến bờ suối một lúc, thì lúc bấy giờ Thiên Ma ba tuần có đến xuất hiện và thỉnh Đức Phật Nhập Niết bàn. Trước kia là lúc Đức Phật mới thành đạo là Ma Ba tuần có thỉnh Phật Nhập Niết Bàn rồi. Nhưng Phật nói rằng là ngài chưa giáo hóa, có các đệ tử chưa thuần thục trong Pháp, chưa trưởng thành. Thì Ma ba tuần lúc này nói rằng Thế Tôn hãy xin giữ lấy lời hứa. Ngài nói rằng khi nào đệ tử của các ngài đã thuần thục, đã có người tu chứng giáo Pháp thì ngài nhập Niết Bàn. Nay thì đúng là lúc các đệ tử của ngài cũng đã giáo hóa xong rồi, pháp cần nói ngài đã nói rồi, ngài còn lưu luyến gì cuộc đời này nữa. Xin đức Thế tôn nhập Niết Bàn cho. Ba tuần cũng cầu thỉnh ba lần như vậy mà. Đức Phật nói với Thiên Ma ba tuần rằng, ta tự biết thời sau 3 tháng nữa ta sẽ vào nhập Niết bàn. Khi Đức Phật nói một câu như vậy thì ngài liền nhập định và quyết định xả thọ mạng và khi đó trái đất chấn động. Ngài A Nan đang ngồi ở bên bờ suối thấy đất nó rung chuyển, nước nó ngược ở cái bờ suối nó tràn lên, làm cho ngài A Nan lúc bấy giờ sợ dựng tóc gáy. Tưởng là có việc gì xảy ra là chạy vào hốt hoảng thưa với Phật. Thế Tôn có việc gì vậy. Đức Thế Tôn nói rằng là các đức Như Lai thì có mấy trường hợp là trái đất chấn động. Khi Ngài sinh ra là trái đất chấn động, khi ngài hàng phục ma uẩn thành vô đẳng chính giác là trái đất chấn động, khi ngài chuyển bánh xe pháp luân là trái đất chấn động và khi đức Như ai xả thọ mạng, quyết định nhập niết bàn thì trái đất chấn động. Đức Phật nói như vậy thì ngài A Nan lúc bấy giờ mới mới hiểu ra rằng Đức Phật sẽ nhập Niết Bàn, và lúc bấy giờ cầu xin Bạch Đức Thế Tôn xin thế tôn ở lại, đừng có bỏ chúng con… đại khái như vậy. Thì Đức Phật có nói là vừa nãy ta đã nói với ông tới ba lần rằng, người mà tu chứng quả vị vô thượng chính đẳng chính giác, thuần thục trong các thiền pháp thuần thục trong tứ như ý túc thì có thể tùy kéo dài tuổi thọ cho đến bao nhiêu, khi vị ấy muốn, có thể kéo dài tuổi thọ một kiếp hay hơn một kiếp, nhưng mà ông không có nói gì. Sau khi mà ông đi ra thì Ba tuần đã cầu thỉnh ta và ta đã hứa với Ba tuần- ba tháng nữa ta sẽ vào nhập niết bàn, Đức Phật có nói như vậy. Thế là Ngài A Nan trong cái lúc mà cuống như vậy, đã nói một cái câu sau này Đức Phật gọi là hồ đồ, xin Đức Thế Tôn hãy hủy lời hứa đó với với Ba tuần và Đức Thế Tôn có quở trách ngài A Nan rằng cái lúc cần cầu thỉnh thì ông không cầu thỉnh, dù ta có hứa với Ma thì ta cũng phải giữ lời hứa. Đây là một câu nói mà chúng ta phải phải ghi nhớ. Đức Phật dù hứa với ma thì Đức Phật cũng phải thực hiện, không bao giờ nuốt lời, không bao giờ hứa rồi mà nuốt lời cả. Dù đó là kẻ thù. Bởi vì ma là kẻ thù của Phật pháp nhưng mà Đức Phật đã hứa với ma thì Đức Phật vẫn thực hiện. Cho nên Phật pháp là pháp chân thật, dù chúng ta nói điều gì là phải làm cho bằng được. Đức Phật mới nói là những cái gì mà ta làm được, ta mới nói ra, những gì ta nói ra ta đều làm được. Đây là một cái điều mà bài học sâu sắc chúng ta phải ghi nhớ, dù chúng ta hứa bất kể ai, những cái điều gì thực hiện trong cái phạm vi chúng ta. Thế sau đó thì Đức Phật tiếp tục lên đường và trên cái đường đi đó thì chúng ta biết là Đức Phật đã ăn cái bữa ăn cuối cùng do một cái người tên là Thuần Đà dâng cúng, vì thức ăn có độc, được nấu bằng nấm rừng. Cho nên là sau khi ăn bị mắc bệnh tiêu chảy, do đó Đức Phật rất khát nước, lúc bấy giờ có một cái đoàn xe đi qua suối và Đức Thế Tôn có bảo ngài A Nan đi lấy nước nhưng mà A Nan sợ nước đục không lấy nước cho Đức Phật, vì mất nước cho nên là cơ thể nó bị kiệt quệ và Đức Phật đã phải dùng định lực để chống đỡ cơn bệnh  hành hạ, và ngài quyết định đến rừng Sa La Song Thụ ở gần đó để nhập Niết bàn. Khi ấy thì ngài A Nan có cầu thỉnh là Bạch Đức Thế Tôn, hãy di chuyển đến một cái thành phố khác. Bởi vì đấy là một cái ngôi làng rất là nhỏ, dân chúng thưa thớt và không có đủ điều kiện để tổ chức một tang lễ cho Đức Phật. Phần Đức Phật có thuyết bài kinh liên quan đến địa điểm mà Đức Phật nói rằng nghĩ rằng, bây giờ trông thấy nó đơn sơ nghèo làm như vậy. Nhưng mà xưa kia thì nơi đó là nơi mà các Đức Phật xưa kia như Đức Phật Ca diếp đã nhập niết bàn ở đó, và xưa kia đây là một cái thành phố cổ xưa và trong cái thời thành phố cổ xưa của có một cái vị vua tên là Thiện kiến đấy, thành phố trang nghiêm tốt đẹp. Nó giống như trong kinh Phật Thuyết A Di đà có nói là thất trùng la thuẫn, thất trùng hàng thụ, thất trùng la võng thì thực ra được nói trong kinh thiện Kiến Vương mà Đức Phật nói về địa điểm ngày nhập Niết Bàn. Ở đây có một ý rất là sâu xa. Ngài chọn một địa điểm thật là hẻo lánh. Thật là nghèo khổ để ban cái ân đức cuối cùng cho người dân. Dù ngài có viên tịch thì người ta còn được hưởng phúc ở đó. Cho nên chính vì Đức Phật chọn cái nơi hẻo lánh đó mà ngài nhập niết bàn thì nó mới trở thành một cái thành phố lớn. Bởi vì để kỷ niệm Đức Phật thì tám vị Quốc vương của tám nước phải đến đó để mà kính lễ Đức Phật, phải xây tháp cúng giàng Đức Phật ở đó và nó mới biến thành một trung tâm biến thành một thành phố lớn. Đấy chính là một cái cái ý rất là sâu xa. Đức Phật không chọn những thành phố lớn, không chọn những nơi có đầy đủ tiện nghi mà ngài chọn những cái nơi hẻo lánh nhất để nhập Niết bàn. Cho dù là thân xác Ngài không còn, nhưng ân đức cuối cùng Ngài để lại thì cho đến tận bây giờ người dân ở đó vẫn hưởng được ân ức ấy. Bởi vì nó là thánh địa của Phật pháp nên người khắp cả thế giới ta đến đó. Dân chúng ở đó bây giờ vẫn được hưởng cái lợi đấy, cái lợi lộc nơi Đức Phật nhập Niết bàn mà đây chính mới là cái ý sâu xa của Đức Phật. Chúng ta biết rằng sau khi mà ăn, thức ăn còn thừa, Đức Phật có nói với với Thuần Đà là rằng là bảo với A Nan là đến nhắc nhở Thuần Đà là đừng có sợ hãi. Công đức của ông viên mãn, bởi vì đã cúng dàng bữa ăn tối hậu cho Đức Như Lai, và Đức Phật nói trong cuộc đời của ngày có hai cái bữa ăn đặc biệt nhất là công đức là lớn nhất. Đó là bữa ăn trước khi Đức Phật thành vô thượng chính đẳng chính giác của cái cô gái cùng bát cháo sữa và bữa ăn cuối cùng trước khi vào Niết bàn. Đức Phật sai l thức ăn mà Đức Phật ăn còn dư đó không được cúng cho ai cả, và phải đem chôn. Bởi vì nếu mà với cái độc tố của nấm độc nó, người bình thường ăn vào một cái là có thể chết ngay lập tức. Nhưng Đức Phật đã đã dùng cái định lực của mình, duy trì cái thọ mạng cho đến hết ngày hôm đó và tới lúc nửa đêm ấy Đức Phật mới nhập Niết bàn. Đấy là sự thật lịch sử nó là như vậy. Và trước khi nhập niết bàn thì Đức Phật có nói lời di chúc, đối với Phật giáo Bắc Truyền thì chúng ta có hai bản kinh nói đến cái di chúc này đó là Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Bàn Kinh Đại Bát Niết Bàn là một bộ kinh rất lớn. Và cái bản kinh thứ hai là Phật Bát Niết Bàn, Phật thùy Niết bàn được thuyết giáo giới Kinh hay chúng ta gọi là kinh Di giáo- đấy là bản di chúc. Phật giáo Nam truyền ấy thì họ cũng có trong kinh Trường bộ là kinh Du hành. Nói về cái suốt thời gian ba tháng Đức Phật di chuyển cho đến khi nhập niết bàn. Những các cái nội dung đó được ghi chép ở trong kinh điển một cách khá kỹ lưỡng. Chúng ta biết rằng khi Đức Phật chuẩn bị nhập niết bàn thì có một cái ông già tên là Tu Bạt Đà La, trong sách nói là hơn 80 tuổi, có chỗ nói đến đã một trăm hai mươi tuổi và xin vào gặp Đức Phật, lúc bấy giở Đức Phật cũng đã rất mệt rồi. Ngày A Nan ở ngoài ngăn lại không cho vào, hai bên to tiếng với nhau. Đức Phật liền trở dậy và gọi để cho Tu Bạt Đà La vào, và sau thời pháp thuyết pháp của Đức Phật thì Tu Bạt Đà La, lúc bấy giờ chứng ngay quả A La Hán và xuất gia làm đệ tử của Đức Phật- là đệ tử cuối cùng không phải là thụ Sa di. Vị này chứng quả A La Hán. Và sau khi chứng quả, ông ấy xin phép Đức Phật nhập niết bàn luôn tại chỗ, tức là chết ngay đấy. Sau khi chứng quả là ông nhập đến bàn luôn, và nhập Niết Bàn trước Đức Phật có một hai tiếng đồng hồ thôi. Đấy là đệ tử cuối cùng của Đức Phật.
Trong kinh Tế giáo thì nói tóm tắt toàn bộ pháp tu hành của người xuất gia, và trong đó có một cái lời dạy, đó là bởi vì ngày A Nan hỏi  khi Đức Phật nhập diệt: khi Đức Phật còn tại thế chúng ta nương vào Phật làm thầy vậy khi Đức Phật nhập diệt thì chúng con nương tựa vào ai. Đức Phật khẳng định được điều là nương tựa vào pháp và luật của Phật. Nếu mà pháp và luật còn thì giống như Thế tôn còn tại thế. Ở đây không chỉ là luật, không chỉ là giới mà pháp nữa, là toàn bộ giáo pháp của Đức Phật. Phải nói là nương tựa vào pháp, vào luật. Nếu pháp và luật mà còn ý thì giống như ta ở trên đời không khác. Các người phải nương tựa vào chính mình, lấy mình làm hải đảo cho tự thân, lấy giáo pháp làm buốc để soi đường cho mình. Chớ có nương tựa vào người nào khác. Cho nên Đức Phật không chỉ định một vị đại đệ tử nào thay Phật giáo hóa chúng sinh và làm giáo chủ cả. Cho nên trong Phật pháp của chúng ta chỉ có Đức Phật làm giáo chủ, chứ không có người kế thừa Đức Phật làm giáo chủ. Cái điều này là phải khẳng định một cái điều như vậy, và Đức Phật không cho phép bất kể một người nào thay Phật để lãnh đạo toàn thể tăng đoàn trên thế giới. Trường hợp này là không có. Cho nên là nhiều khi chúng ta nói tại sao Phật giáo không có một tổ chức Phật giáo thế giới, không có một cái giống như là các tôn giáo khác như là đức Giáo hoàng của Va Ti Căng chẳng hạn. Chúng ta phải hiểu là trong giáo pháp của Đức Phật, ngoài Đức Phật thì không ai có khả năng tu chứng được ngang bằng với Phật cả, cho nên không thể ai thay thế Đức Phật làm thầy cho cả nhân loại được. Dù là các bậc A La Hán có khả năng là giải thoát giác ngộ, nhưng mà các ngài không đủ khả năng để làm giáo chủ. Giáo chủ là bậc phải chứng đạo, thuyết đạo, chứ còn các vị đệ tử của Đức Phật là đi theo con đường của Đức Phật đã chỉ dẫn để tu, chứ không phải là người khai sáng. Chỉ có Đức Phật là người khai sáng, cho nên chỉ có Phật làm Giáo chủ thôi. Cái này là điều mà chúng ta phải phải nên nhớ- Phật mới là Pháp Vương vô thượng. Ngoài ra không có ai làm Pháp Vương được cả. Pháp Vương là vua của Pháp, nên là đối với các pháp là phải tự tại. Cho nên ngày nay những cái danh xưng, kể cả là danh xưng là giáo chủ hoặc là Pháp Vương hay kể cả là danh xưng là Pháp chủ. Xưa kia, những danh xưng ấy chỉ dành cho Đức Phật, chứ không dành cho bất kể một vị thánh tăng nào thời Đức Phật cả, mà ngày nay đối với tất cả những hàng phàm phu tăng thì lại càng không thể sử dụng. Cái này là trong kinh đã khẳng định cái cái điều này. Nhiều khi ngày nay chúng ta là cứ hơi lạm xưng về các sử dụng, gọi vị này là Pháp vương, gọi vị kia là giáo chủ hay là thế này, thế khác thì cái danh xưng ấy nó đối với thế tục thì được. Còn đối với Phật pháp nó đã lạm vào cái danh xưng của Đức Phật. Đức Phật là Pháp vương vô thượng mà không có ai sánh được, không có ai thể có thể có cái vị trí được. Chúng ta biết rằng là khi Đức Phật còn tại thế, có một người ngông cuồng nghĩ rằng là Phật có ngôi vị, có thể là truyền ngôi giống như là ngôi vua thế gian. Đó là Đề Bà Đạt Đa, đã xin Đức Phật là giao tăng đoàn cho ông ấy quản lý. Ông ấy muốn rằng là sau khi Đức Phật nhập niết bàn, ông sẽ là người lãnh đạo giáo hội, lãnh đạo tăng đoàn. Đức Phật đã nói luôn rằng là ngay cả Xá lợi phất, Mục Kiền Liên, ta cũng không từng giao tăng đoàn cho họ quản lý, huống chi là ông là kẻ phàm phu. Cho nên khi bị Đức Phật quở trách như vậy, cho nên Đề BN Đạt Đa mới câu kết với A Xà Thế, để một đằng là giết Phật để làm Phật mới, một đằng giết vua để làm vua mới, vua mới với Phật mới cấu kết với nhau để cai trị thiên hạ. Cái đó đã xảy ra một câu chuyện rất là thương tâm ở trong Phật pháp. Trong giáo pháp của Đức Phật, Đức Phật không có chỉ định ai thay thế Phật để làm việc đó, mà chúng ta chỉ y cứ duy nhất vào Pháp và luật của Đức Phật, và phải tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình nương tự vào pháp và luật của Phật, và nương tựa vào chính mình. Ngày nay chúng ta nương tựa là quy Phật, quy pháp, quy tăng, nhưng mà phải tự quy cơ. Bên ngoài là chúng ta nương tựa vào Phật pháp tăng ở bên ngoài, nhưng để trở về với cái tự tính vốn có Phật pháp tăng ở bên trong, thì cái đó là tự quy. Chỗ này là chúng ta hiểu rõ như vậy. Chúng ta biết rằng cuộc đời của Đức Phật cao quý và những cái giá trị tốt đẹp, thì xã hội ngày nay suy thoái bao nhiêu, hỗn loạn bao nhiêu, khổ đau bao nhiêu càng thấy cái giá trị đích thực lời dạy cao quý của Đức Phật bấy nhiêu. Hơn lúc nào hết, cho nên Liên hợp quốc, thế giới kêu gọi mọi người không kể bất kể một tôn giáo nào, không phân biệt quan điểm tôn giáo, mà phải quan điểm trên sự thật, những gì Đức Phật đã chỉ dạy có thể áp dụng để giải quyết các vấn đề khổ đau của nhân loại, giải quyết những vấn đề bất hạnh và chiến tranh, giải quyết những vấn đề đói nghèo và si mê, thì đều có thể học tập và ứng dụng lời của Đức Phật. Đây là thông điệp mà mà hàng năm Liên hợp quốc tổ chức những ngày VeSak đều nhắc đến chuyện này, tức là không có phân biệt tôn giáo, không phân biệt tín ngưỡng. Đức Phật là Phật pháp, không phải là một tôn giáo, đây là triết lý sống, triết lý sống mà nó giải quyết căn bản khổ đau của nhân loại, mà căn bản khổ đau của nhân loại nó chỉ có ở một chữ thôi, chấp ngã. Đạo Phật ấy là vô ngã, chúng ta chấp ngã cho nên là chúng ta khổ đau, bản thân chúng ta chấp chúng ta là thế này, thế kia. Cho nên ai động vào cái quan điểm chấp trước của chúng ta thì chúng ta đau khổ rồi. Trong gia đình cũng vậy, vợ chồng mà người nào cũng dương cái ngã của mình lên ấy, thì sớm muộn gì cũng sẽ đau khổ và sứt mẻ. Cha con, vợ chồng trong một gia đình – mọi sự bất hòa, mọi sự khổ đau, mọi sự dị biệt, mọi sự hiểu lầm, mọi sự ganh ghét đố kỵ, đều xuất phát từ một chữ ngã này. Rồi cho đến là hàng xóm láng giềng, lớn ra là đất nước, lớn ra nữa, là cả thế giới, mọi sự ganh ghét, đố kỵ hơn, thua được mất, sống còn, chiến tranh, bệnh dịch, tai họa đều là do cái sự chấp ngã này. Cả nhân loại đi tìm cầu cái hạnh phúc nhưng mà câu hỏi đó đã được Đức và trả lời 26 thế kỷ rồi, là con đường Đức Phật đã chỉ ra rồi, đó chính là Bát chính đạo. Không riêng gì những người tu học Phật pháp chúng ta, bất kể trong lĩnh vực nào, trong mọi khoa học nào, nếu áp dụng cái nguyên tắc Tứ đế và Bát chính đạo của Đức Phật thì đều có thể tìm được cái kết quả tốt đẹp và giải quyết được căn cơ đấy. Tất cả những gì mà liên quan đến khổ đau, xung đột của nhân loại. Đây là cái bài học mà quý nhất, đấy là người học Phật chúng ta nói riêng và nhân loại nói chung, có thể tiếp cận được, thụ hưởng được những cái giá trị tinh thần tốt đẹp mà Đức Phật để lại. Do vậy, ngày nay chúng ta học Phật là để hiểu đúng những giá trị mà Đức Phật đã chỉ dạy để lại trong kho tàng giáo pháp. Đây là điều thứ nhất gọi là pháp học, từ trong pháp học đó đấy chúng ta mới rút ra được cho mình pháp hành, tức là chúng ta tu thế nào, thực hành thế nào, sửa mình thế nào để chúng ta có thể trước hết là giảm bớt được những thói hư thật tật xấu, và thực hiện được mục đích đầu tiên, tức là chúng ta bỏ ác làm lành. Đây là cái mục đích học Phật đầu tiên, nhưng mà phải phải học phải tu thì mới bỏ ác làm lành. Thế rồi chúng ta phải bỏ mê về với ngộ, học Phật để loại trừ được cái những cái chấp trước, mê mờ, những hiểu sai lầm về con người, về bản thân, về giá trị, về xã hội, về đạo đức, để chúng ta có hiểu biết chân chính về Phật pháp, hiểu biết chân chính về bản chất con người và xã hội. Cái đó chính là chúng ta bỏ mê về mới ngộ, Giáo pháp của Đức Phật có tác dụng là gì? Phá mê, khai ngộ, phá những cái mê mờ chấp trước để cho chúng ta được được ngộ. Nhưng mà chúng ta ngộ đấy là mới ngộ về lý, còn đòi hỏi chúng ta tu thì phải ngộ về sự. Ví dụ như trong kinh nói ba điểm quan yếu nhất đó là vô thường, khổ, vô ngã, cái đó ai học Phật cũng biết được, ai cũng nói được nhưng mà vô thường nó diễn ra như thế nào. Chúng ta có nhận chân được giá trị của vô thường để mà áp dụng trong tu không lại là chuyện khác. Khi vô thường nó xảy đến, chúng ta bảo- Ôi, đời vô thường quá, ai cũng nói thế được, nhưng mà khi vô thường nó xảy ra chúng ta có nhận chân được nó là vô thường, mà khi nó vô thường như vậy chúng ta có khổ đau không? Hay là bảo là đời vô thường quá, nhưng mà chúng ta vẫn vẫn lao đầu vào trong cái sự vô thường ấy, để nó cuốn trong cái vòng chảy của của tham, sân, si, hoặc là khi vô thường đã xảy đến chúng ta, nhà kia có người chết. Chúng ta bảo thật là vô thường, vừa mới sống, hôm qua hôm nay đã chết rồi, nhận thức thì được, nhưng mà đến khi mà chúng ta xảy ra, trong nhà chúng ta xảy ra chuyện này chuyện khác chúng ta có khổ đau không? Hiểu được bản chất của nó cũng là vô thường thế nào không, và từ trong cái vô thường ấy để chúng ta thoát ra để tìm được cái chân thường không? Đấy mới là bài học. Cho nên giáo pháp của Đức Phật không phải học để cho nó biết, nói cho nó hay, điều quan trọng là sau pháp học đấy là pháp hành, đấy mới là quan trọng. Thứ ba là hành rồi phải chứng – pháp chứng, tức là chứng ngộ được Phật pháp, cho nên Phật pháp là đặt trên bốn nền tảng tín- giải- hành- chứng, chúng ta có niềm tin, chúng ta mới đến Phật pháp. Đây là cái căn bản thứ nhất, nhưng mà sau cái niềm tin đấy là phải giải, phải hành, phải chứng, tức là pháp học phải hiểu, gọi là giải, hiểu rồi phải đem vào thực hành, thực hành, phải có kết quả. Chúng ta phải có kết quả ngay trong đời hiện tại đấy chứ không không phải là đợi đến tận vị lai sau này chúng ta mới mới có, phải làm sao mà học Phật là phải có lợi ích ngay trong trong hiện tại. Bây giờ áp dụng lời Phật vào trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải có được kết quả thiết thực ngay trong hiện tại. Tu ngày nào, tu giờ nào là phải an lạc là phải giải thoát ngày đó, giờ đó. Áp dụng lời Phật vào trong công việc nào chúng ta phải thấy có kết quả trong công việc đó. Thế thì mỗi ngày chúng ta tích lũy một chút, mỗi ngày chúng ta làm một chút thì kết quả nó mới lớn dần. Nói như vậy chúng ta mới đóng chặt được cửa của tam ác đạo, mở ra cửa của thiện đạo, gieo vào trong tâm thức của chúng ta bồ đề tâm và có như thế mới làm cho chúng ta đời đời kiếp kiếp sinh ra được, được gặp Phật pháp, được tu hành mới có thể đến một cái lúc nào đó, nhân viên quả mãn chúng ta có thể chứng được thánh quả, sơ quả, nhị quả, tam quả hoặc tứ quả, cao hơn nữa là phát huy con đường bồ tát đạo, thượng cầu Phật đạo, hóa độ chúng sinh và hướng đến cái mục đích cuối cùng của đạo Phật chính là chứng thành vô thượng, chính đẳng, chính giác.

Tôi xin kết thúc bài lịch sử của Đức Phật ở đây, xin mời đại chúng chúng ta hồi hướng.

BÀI 3: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA TỪ THÀNH ĐẠO ĐẾN NIẾT BÀN

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 02.01.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 30
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 30
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 30 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
BÀI 4 – BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ – BUỔI 20
BÀI 4 – BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ – BUỔI 20
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 4 – BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ – BUỔI 20 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH Yo...
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 33
BÀI 6 –  TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 33
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 6 – TỊNH ĐỘ TAM TƯ LƯƠNG – BUỔI 33 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Fac...
Được xem nhiều