BÀI 6- SÁM HỐI
Trong Phật pháp có câu: “Hà nhân vô tội, hà giả vô khiên, tử túc động niệm, vô phi thị tội”. Có nghĩa là chẳng ai là người không có tội, chẳng kẻ nào là kẻ không có lỗi, đã là phàm phu ấy cất bước chân đi trong đầu khởi ra ý nghĩ thì đã sinh ra tội.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói, nếu mà tội của chúng sinh mà có hình tướng, thì có lẽ chất đầy hư không này cũng không hết tội. Nếu hôm nay chúng ta làm một việc có lỗi, giả sử điều tội lỗi đó được đo to bằng cái ấm, hôm sau điều tội lỗi khác to bằng chén, có hôm là cái tội nó to bằng cái xong cái nồi, cái bàn cái ghế chẳng hạn, thì tội của một đời người có thể chất đầy hư không.
Người mà đã chấm dứt tội lỗi trên thế gian này, theo Đức Phật dạy thì phải là Bậc A La Hán có thể chấm dứt được các hành vi tạo tội, nhưng mà các nghiệp quá khứ thì nó vẫn còn, nhưng từ khi mà chứng quả A La Hán thì tất cả những hành vi của thân của miệng của ý đều không tạo tội nữa, và Đức Phật là bậc A La án chính đẳng giác thì cũng giống như vậy. Còn kể cả các vị đã chứng sơ quả thánh nhân, vẫn còn có khả năng gây tội, nhị quả, tam quả cũng như vậy, chỉ có là tội của những trường hợp ấy của những vị ấy nó vi tế, tức là nó chỉ trường hợp tội nhỏ, mà không có những thô tội, thuộc tội lớn. Do đó giống như một cái áo mà chúng ta mặc, thì mặc một hai ngày nó sẽ lấm bụi và sẽ nhơ bẩn. Do đó chúng ta cần phải tẩy rửa, tức là hàng ngày phải giặt rũ cho nó sạch, thân thể chúng ta bẩn thì chúng ta cũng phải dùng nước để tắm gội cho sạch, thế thì tắm rửa thay quần áo chỉ giúp cho chúng ta sạch được cái thân ở bên ngoài thôi, không có thể làm cách nào để cho chúng ta làm sạch trong tâm cả. Dù cho bất kể một bằng cách nào hoặc cầu nguyện, hoặc là dùng nước thánh để rửa tội, cho đến các cái tôn giáo ấn độ là xuống sông hằng để tắm để gột rửa, thì cũng chỉ làm cho người ta gột rửa ở bên ngoài thân, mà không có cách nào làm cho người ta có thể sạch được tội từ tâm. Duy chỉ có phương pháp sám hối trong Phật Pháp là đây là một pháp tu, khẳng định là nó là như vậy, tức là nó là phải do chúng ta tụ tập, chứ không phải là ở sám hối bằng hình thức, mà có thể gột rửa được tội. Và phương pháp sám hối ở đây chính là phương pháp cải tạo tâm, sửa đổi tâm, gột rửa tâm, và làm cho tâm chúng ta trở nên thanh tịnh. Do cái thanh tịnh ấy thì tội lỗi mới có thể tiêu trừ, nhân của nó có thể trừ được, thì quả của nó mới chấm dứt được. Cho nên chúng ta học Phật là phải hiểu được nhân quả. Do nhân nào dẫn đến quả nào mà chúng ta muốn trừ kết quả của nó trong tương lai thì phải đoạn cái nhân của nó, đoạn cái duyên của nó, đây chính là cái phương pháp để giúp cho chúng ta loại trừ được nhân quả xấu trong hiện tại và tương lai, bằng cái phương pháp gọi là sám hối, bây giờ chúng ta đi vào cái nội dung chính của bài.
Kinh văn:
A. MỞ ÐỀ
Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong sạch.
Phật thường dạy: “Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi”.
Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần, thì làm sao trong sạch được? Người ta thường nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; vậy thì ở trong bụi tất phải lấm bụi. Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, vào trong buồng gan lá phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chân tâm.
Nếu chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng, thư thới, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết bụi bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.
B. CHÁNH ÐỀ
I. ÐỊNH NGHĨA
Chữ “Sám”, tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là “Hối quá”. Kinh nói: “Sám gỉả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá”. Nghĩa là, Sám là ăn năn lỗi trước, còn Hối là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không thì chưa đủ ý nghĩa, nên các tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ “Sám hối”, dịch theo tiếng Việt là “ăn năn chừa lỗi”. Như thế trong chữ sám hối có hàm nghĩa ăn năn, hối hận vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau, và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là bậy, bây giờ mình xin chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn còn làm lại, thì không phải là đúng nghĩa sám hối trong đạo Phật.
Giảng giải chi tiết:
Thứ nhất là chúng ta nói về định nghĩa hay là định danh của hai cái từ sám hối. Ở đây nói hai cái chữ sám hối thì thực ra đây là từ ghép của cả tiếng Phạn và tiếng Hán, bởi vì tiếng Phạn gọi là Sám ma ta gọi phiên âm là Sám, Trung Quốc dịch là hối quá, vì thế người ta cắt cái chữ sám ma lấy chữ sám ghép và cái từ hối quá lấy chữ hối thành sám hối. Cho nên đây nó là từ ghép cả tiếng Phạn và tiếng Hán. Sám ma là gì, hối quá là gì, sám ma là hối quá- hối là ăn năn hối hận, quá là tội lỗi, những sai lầm, quá là vượt qua, tức là vượt qua tức là vượt qua tiêu chuẩn đạo đức, vượt qua những điều mà đức Phật quy định, mà đã vượt qua những các tiêu chuẩn đấy thì nó trở thành lỗi gọi là quá. Sám hối là ăn năn hối hận những lỗi lầm đã qua, thực ra cái này nằm trong bát chính đạo và nằm trong cái phần tứ chính cần, là nỗ lực tinh thần làm sao để cho cái ác, bất thiện pháp đã sinh phải diệt trừ, mà chưa sinh thì để cho nó không sinh, quan trọng hơn nữa là những thiện pháp mà chưa sinh thì phải làm cho nó phát sinh, những thiện pháp đã sinh phải làm cho tăng trưởng. Đây chính là hối quá, hối quá tức là chúng ta phải nhận thức được tội lỗi, nhận thức thức được sai lầm, cho nên người đời ta nói là nhận thức được sai lầm thì có cơ hội sửa chữa, người ta sợ nhất là người ta không nhận thức được sai lầm, người ta làm những hành động ấy nhưng mà họ không nhận ra đó là sai lầm, và vì thế họ tiếp tục dấn thân vào những cái bùn lầy của tội lỗi. Bởi vì họ do không hiểu nhân quả, không biết nghiệp báo, cho nên họ cho rằng những hành động ấy không dẫn đến tội lỗi, không dẫn đến sai lầm, và có những người gọi là bác vô nhân quả, tức là không tin vào nhân quả, không tin vào kiếp sau, không tin vào nghiệp báo, cho nên họ cho rằng là họ làm những chuyện đó không có sai, không sai. Vậy thì chúng ta ở đây phải nói rõ là cái gì là cái sai, cái gì là không sai, tiêu chuẩn nào là đúng sai, tiêu chuẩn đúng sai của chúng ta đối với phật tử chúng ta chính là điều thiện và điều bất thiện, gọi là thiện và ác. Vậy thế nào là thiện, các thế gian khác nhau, các thời kỳ khác nhau, các thời đại khác nhau, kể cả là các quốc độ khác nhau, thì người ta có quan điểm thiện ác khác nhau, nhưng mà cái thiện ác này là thiện ác ở thế gian. Ví dụ quốc gia thì đều cho rằng là giết người là một tội lỗi. Thế nhưng có những tôn giáo có những tà giáo người ta cho rằng là giết người là thánh chiến, và cái đó là để bảo vệ đạo, và người ta cho rằng đó là hành vi đạo đức cao cả chẳng hạn. Tại vì ngày xưa cái thời dã man người ta phải đem người để hiến tế cho thần linh, người ta cho rằng đó là một cái hành vi là hy sinh cao cả, và cho rằng đó là một cái việc làm phúc thiện, thế thì quan điểm nó hoàn toàn khác nhau. Hoặc là có những các cái cái cái quan điểm thời đại là thời đại này cho cái cái điều làm như thế là đúng, nhưng mà thời đại khác người ta không cho như thế là đúng, hoặc trong cùng một thế giới này thì chúng ta thấy có những nước người ta cho rằng điều này là hợp lý, nhưng mà nước khác người ta không cho là hợp lý. Ví dụ như là ở nước chúng ta thì nó tương đối bình đẳng nó không sao, nhưng ví dụ như ở những các nước Hồi giáo chẳng hạn, người phụ nữ là không có những cái quyền này quyền kia, không thể đem áp dụng giữa cái chỗ này chỗ kia, người ta cho rằng đó một cái đạo đức của họ, thì đấy là thuộc quan điểm thế gian. Nhưng mà chúng ta học Phật thì chúng ta phải lấy quan điểm của của đức Phật, phải hiểu thế nào là là tội lỗi, thế nào là sai lầm. Hôm trước chúng ta nói rằng điều tội lỗi, sai lầm đối với phật tử chúng ta chính là liên hệ đến năm giới. Chúng ta duy trì giữ gìn năm giới và thực hiện năm giới của đức Phật đó chính là điều thiện, vượt qua cái năm giới đó tức là vi phạm năm giới đó chính là điều bất thiện. Thế thì mở rộng ra trong năm giới ấy chính là mười điều thiện, chúng ta gọi là thập thiện. Vì thế tiêu chuẩn thập thiện trong Phật Pháp đấy là thiện pháp, và làm những điều đó thì được gọi là thiện.
Thân có ba điều: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, đó là cái thiện của thân. Bốn cái thiện của miệng: không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu, đó là bốn điều thiện của miệng. Và ba cái điều thiện của tâm đó là: không tham, không sân, không tà kiến. Tà kiến là đi theo tà giáo ngoại đạo, như hôm trước tôi đã nói là trong phần gian tam quy, cái đó thuộc về tà kiến. Người ta nghĩ rằng là những việc mà họ làm như thế vậy là thiện, nhưng mà Phật pháp thì không cho đó là thiện. Ngược lại những tiêu chuẩn thiện ấy là tiêu chuẩn bất thiện, sát sinh, trộm cắp, tà dâm là bất thiện, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói ác khẩu, nói thêu dệt là bất tiện, trong tâm khởi tham, sân, si, tà kiến là bất thiện. Thế thì mở rộng ra, chữ thiện ác ở đây là gì-những điều gì chúng ta làm, những điều gì chúng ta nói, những điều gì chúng ta suy nghĩ, mà điều đó nó có động cơ từ tham – sân – si hay nói cách khác điều đó làm ra có hại cho bản thân chúng ta, mở rộng ra nó có hại cho người khác- đó là điều bất thiện. Còn những điều gì mà chúng ta làm, chúng ta nói, chúng ta suy nghĩ và điều đó phải đem lại lợi ích cho người, và trong đó có thêm cái lợi ích cho mình, và có lợi ích cho cả hai, đó là điều thiện. Rõ ràng ở đây những cái điều mà chúng ta làm sai là bất thiện trong thập ác nghiệp, thì điều đó mới phải sửa, còn những cái điều mà chúng ta đã làm trong điều thiện phải nỗ lực làm thêm. Sám hối là cái trước hết là chúng ta phải nhận thức được cái gì là tội lỗi, cái gì không phải là tội lỗi, và đã là tội lỗi thì phải nỗ lực mà sửa. Ở đây chữ sám hối không phải là cái cách mà chúng ta hàng ngày mà chúng ta lên một khóa lễ, tụng kinh niệm phật rồi có một cái bài sám hối, ví dụ như vãng tích sở tạo chư ác nghiệp. Chúng ta đọc một lượt như thế, rồi đọc cái câu là Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát. Như thế là chúng ta đã sám hối, xin thưa không phải, cái đó mới chỉ là sám hối ở cái cửa miệng thôi. Nói như thế gian cái chữ sám hối này là gì, sám hối là nhận lỗi, xin lỗi và sửa đổi. Chúng ta ở thế gian, chúng ta có lỗi với ai, làm sai điều gì, thì phải có cái dũng khí, tức là phải nhận ra đó là sai lầm, trước hết phải nhận ra, và thứ hai là đủ dũng khí đối mặt với tội lỗi, và chúng ta phải chịu trách nhiệm với cái cái lỗi lầm chúng ta đã làm, cho nên là chúng ta phải đối diện với cái người mà chúng ta đã làm sai, bỏ lời xin lỗi, và xin lỗi rồi thì ngày mai chúng ta phải đủ dũng lực đấy để mà thay đổi, tức là không tái phạm nữa. Do không tái phạm nữa thì lâu ngày mà chúng ta lại phải tích thêm điều thiện, làm thêm công đức, thì tội lỗi ấy mới thực sự nó tiêu diệt được. Nếu mà chúng ta không làm điều thiện, mới chỉ dấm chấm dứt điều không làm ác, thì chúng ta mới chỉ làm được một nửa vế thôi, bởi vì trong cái bài kệ chúng ta đã thấy rồi, chưa ác mạt tác, nhưng mà cái đằng sau nó còn phải “chúng thiện phụng hành” và tiếp đằng sau nữa nó phải là “tự tịnh kỹ ý”, tức là giữ cái tâm trong sạch, thì mới đạt đến cái mục tiêu rốt ráo của học Phật. Và đấy mới chính là thật sự sám hối, tức là làm cho tâm mình trở lên trong sạch.
Chúng ta sang nội dung thứ hai là các cách thức sám hối.
Kinh văn:
II. CÁC CÁCH SÁM HỐI
1. Sám hối sai lầm.
Ðúng ra chữ sám hối là danh từ riêng của đạo Phật. Khi sám hối mà gọi là sai lầm, thì không phải là sám hối nữa rồi. Nhưng để tiện việc diễn đạt, chúng ta hãy tạm dùng hai chữ ấy để nói chung những cách chuộc tội ở thế gian hay trong các ngoại đạo.
Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước, thường dùng trầu ruợu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, xin lỗi. Có khi người ta lại dùng hình thức “đoái công thục tội”, nhưng khi phạm tội với triều đình hay trong quân ngũ chẳng hạn. Hình thức lấy công chuộc tội cũng có chỗ hay, nhưng chưa hoàn hảo và còn thô thiển. Nó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong trường hợp những tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những tội lỗi rất vi tế, rất sâu xa, thì khó có thể mà áp dụng được hình thức nói trên.
Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều hình thức chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta cho là linh thiêng thì hết tội; có đạo lại đem phẩm vật để xin thánh thần xả tội; có đạo lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân mình, nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được giải thoát tội lỗi.
Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm hết. Tội lỗi thuộc về tâm lý, không có hình tướng. Vậy thì làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân để làm cho sạch tội được.
2. Sám hối chân chính.
Ðức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu thì ăn trái dở, người trồng giống quý thì hưởng quả ngon. Tội lỗi đã từ tâm tạo, thì cũng phải từ tâm mà sám. Lời nói thật rõ ràng, chí lý, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp sám hối chân chánh của đạo Phật mà thực hành. Trong đạo Phật, có 4 pháp sám hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lý:
– Tác pháp sám hối (sự)
– Thủ tướng sám hối (sự)
– Hồng danh sám hối (sự)
– Vô sinh sám hối (lý)
a) Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào giới tràng, mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một lòng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội.
b) Thủ tướng sám hối: Pháp nầy thuộc về sự, và khó hơn pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán tưởng, cho những người tu hành có trình độ cao, hoặc ở chỗ không có Tăng, hay có, nhưng không được thanh tịnh. Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, và mãi cho đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v… thì mới thôi.
c) Hồng danh sám hối: Pháp Hồng danh sám hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Ðộng pháp sư đời nhà Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh “Ngũ Thập Tam Phật” tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến đức Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh “Quán Dược Vương, Dược Thượng”, với pháp thân đức Phật A Di Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền đại nguyện, thành nghi thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời về quá khứ. Ðức Phật Tỳ-Bà-Thi nói: “Nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác”. Ðức Phật Thích-Ca nói: “Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này, và thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sinh tử luân hồi nhiều kiếp”. Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ đức Phật Thích-Ca cho đến đức Phật Bửu-Liên-Hoa-Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ-Vương, thì trong Kinh Bửu Tích nói: “Nếu tất cả chúng sinh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái, thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ”.
Hồng danh của chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn như vậy, nên Ngài Bất Ðộng pháp sư mới soạn ra để làm nghi thức sám hối. Pháp Hồng danh sám hối hiện nay, hầu hết các chùa đều thực hành theo. Về sau Ngài Từ Vân pháp sư vì những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều, nên đã soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy đủ ý nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật tử hằng ngày có thể sám hối tội lỗi của mình.
d) Vô sinh sám hối: Pháp này thuộc về lý sám hối, rất cao và khó, bực thượng căn mới có thể thực hành được. Có 2 cách sám:
– Quán tâm vô sinh: Nghĩa là quan sát tự tâm mình hiện tiền không sinh. Như trong Kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không”. Quán trong ba thời gian đều không có tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có, thì các tội lỗi cũng không. Kinh nói: “Tội từ nơi tâm sinh mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không sinh, thì tội cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối”.
– Quán pháp vô sinh: Nghĩa là quan sát thật tướng (chơn tánh) của các pháp không sinh. Chữ “thật tướng”, nghĩa là cái tướng ấy không sinh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là thật tướng (tướng chân thật). Nó cũng có tên là chơn như hay chơn tâm… Khi nhận được thật tướng rồi, thì các giả tướng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia, không còn gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: “Muốn sám hối, phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn toàn tiêu diệt”.
III . PHÁT TRIỂN HẠNH LÀNH MỚI ÐỂ TIÊU TRỪ TỘI LỖI CŨ
Làm lễ sám hối xong, cần phải phát triển những hạnh lành cho nhiều, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
1. Luận về tội lỗi thời đã qua.
Những tội lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong mỗi đời, từ sinh đến tử, từ tử đến sinh, chúng ta cứ tạo thêm tội mãi. Từ cái tệ này bắt qua cái dở khác, rồi từ cái lỗi nhỏ đi đến cái tội lớn, cái đà ấy cứ tăng tiến mãi tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn chúng ta vào đường khổ não, mê lầm, tức là dòng sinh tử mà chúng ta đang thọ vậy. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phổ Hiền Bồ tát nói: “Nếu tội lỗi chúng sinh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không thể chứa hết”. Thật thế, tội lỗi của chúng sinh chất chồng từ muôn vạn kiếp, và truyền nối qua thời gian, bởi di truyền, phong tục, thói quen v.v… Chẳng hạn như tánh tham, chúng ta mới sinh, nào có ai dạy cho chúng ta đâu, thế mà chúng ta vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng ta giận hờn, vậy mà gặp điều gì trái ý, là chúng ta cau có, la lối liền. Những tánh xấu ấy có một lần với thân và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong kinh gọi chúng nó là “câu sinh phiền não”, hay “bổn hữu chủng tử”, nghĩa là những hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấu này lại còn làm duyên sinh ra các tội lỗi khác, mà trong kinh luận gọi là “phân biệt phiền não” hay “thỉ khởi chủng tử”, nghĩa là hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại, tập quán, phong tục chi phối. “Phân biệt phiền não thì có thể dễ trừ, nhưng “câu sinh phiền não” rất khó trừ. Chúng như cỏ cú, đâm sâu gốc rễ rất xa; nếu người làm vườn khinh thường nó thì không dễ gì dọn đất sạch cỏ.
Cho nên chúng ta không nên sám hối lấy lệ, lấy có được! Chúng ta phải làm sao cho:
a) Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh của lòng thành khẩn và chí cương quyết.
b) Rồi dứt tuyệt các tính xấu không cho chúng tái sinh.
Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích hợp, thì chẳng khác gì lấy đá đè cỏ: Nó nằm bẹp tạm thời, nhưng khi dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh mẽ hơn trước. Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
2. Phát triển hạnh lành.
Trong lòng mỗi chúng ta không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh xấu đã có từ muôn đời, thì tánh tốt cũng đã có từ vô thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của muôn hạnh lành, cái mầm ấy đã bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng thì chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm Phật tánh trổ lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Ðiều kiện làm cho mầm Bồ đề phát triển là những hạnh lành như: Từ bi, hỷ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn v.v… Nếu chúng ta phát triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không có đất để mọc lên nữa.
C. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, người thế gian hay các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. Song, chỉ có pháp sám hối của đạo Phật mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu.
Trong bốn pháp sám hối của đạo Phật, có pháp về sự, có pháp về lý, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người thượng căn, thì quán pháp vô sinh sám hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao tăng, thì dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao tăng đại đức thì dùng pháp tác pháp sám hối. Còn thấy mình tội chướng nặng nề, và thấy các pháp trên khó thực hành được, thì cứ mỗi đêm, hay trong những bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy Hồng danh sám hối, hoặc tiểu sám hối cũng tốt.
Trong các pháp sám hối của đạo Phật, mặc dù có lạy, có quỳ, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin được tha tội đâu. Trong cái lạy, cái quỳ ấy, có chứa không biết bao nhiêu ý nghĩa và ích lợi. Vẫn biết lạy và quỳ, nhứt là trong pháp Hồng danh sám hối, thật là hao hơi mệt xác, nhưng trong cái mệt xác thân, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có hàm cái lý nghĩa bên trong. Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm lâu, nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau:
1. Tìm cách thiết thực làm cho tâm tánh con người được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà cũng tiêu trừ những tội ác trong đời quá khứ.
2. Tìm cách phát triển những hạnh cao cả, noi theo những gương mẫu sáng suốt của các bậc thánh hiền.
Tóm lại, các pháp sám hối của đạo Phật, nếu thực hành một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau đây:
– Làm phát triển tánh thành thật.
– Trau dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu.
– Dứt được tội, sinh phước.
– Mau thắng đến chỗ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của đạo Phật, con người có thể cải hóa lòng mình tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc, và đời sống xã hội được hòa bình, an lạc.
Vậy ai là người muốn hết tội lỗi; ai là người muốn giải thoát sinh tử luân hồi; ai là người yêu chuộng chân lý, hãy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp sám hối của đạo Phật cho kỹ lưỡng, để trước là cải thiện đời sống cá nhân, sau là đời sống của giống hữu tình được bớt đau khổ, và thêm an vui.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây nói các cách sám hối, thứ nhất gọi là sám hối sai lầm, ở đây phải chỉ rõ là phương pháp sám hối sai lầm, không phải là sám hối sai lầm là sám hối những điều sai, cách sám hối sai lầm. Một là cách sám hối sai lầm, hai mới là cách sám hối chân chính. Hai nội dung này đính chính lại để cho nó rõ. Chúng ta sám hối sai lầm, sám hối là sám hối sai lầm, nhưng mà cách sám hối sai lầm, cách sám hối chân chính. Tại trên nó có các cách sám hối, một là cách sám hối sai lầm. Cách sám hối sai lầm ở đây thì chỉ cho các pháp sám hối của các tôn giáo các ngoại đạo và của thế tục. Chúng ta thường thấy rằng như đã nói ở trên ví dụ như ở Ấn Độ người ta cho rằng con sông Hằng là con sông linh thiêng và hàng ngày người ta phải xuống đó tắm rửa, cầu nguyện. Do cái sự tắm rửa ấy mà gột sạch tội lỗi. Cách này thì ngay thời đức Phật còn tại thế, đức Phật đã bác bỏ rằng là không có một dòng nước nào có thể gột sạch được tội lỗi cho con người ta cả. Đức Phật đã khẳng định một điều thế này, không ai làm cho ai trong sạch, cũng không ai làm cho ai tội lỗi, tức là các bậc thần thánh quỷ thần, ngay cả chúng ta gọi là Phật, Bồ Tát không thể làm cho chúng ta trong sạch được, chúng ta hàng ngày có đọc cái bài sám hối trước Phật, đọc đến cỡ nào đi chăng nữa thì cũng không giúp cho chúng ta, nếu tâm chúng ta không thay đổi, nếu chúng ta không tu, nếu chúng ta không dứt trừ, thì dù cho chúng ta đọc một ngàn lần, vạn lần ức triệu lần cái bài Vãng tích sở đạo chư ác nghiệp, thì cũng không có một mảy may tội lỗi nào có thể tiêu trừ được. Phật không trừ tội cho bất kể một người nào, Bồ Tát không thể trừ tội cho một ai được cả, và như thế thì chúng ta biết tất cả những cái vị mà chúng ta gọi là trời thần quỷ vật, các loại thần linh mà các tôn giáo thờ phụng không ai có một đặc quyền và cũng không ai có khả năng để trừ tội lỗi cho một con người nào cả. Kể cả bây giờ chúng ta có làm sai, mà chúng ta xin sám hối, xin lỗi ông bà cha mẹ, ông bà bảo ừ thôi tha cho. Đấy là cái chuyện là người ta tha thứ cho chúng ta, chứ không phải câu tha thứ ấy mà làm cho chúng ta sạch tội, phải hiểu rõ như vậy. Bởi vì khi mà chúng ta làm sai một cái điều nào đó, do chúng ta tác ý ở nơi nghiệp, nó hiện ra cái hành động của than, khẩu, dù chúng ta có xin lỗi mà người ta có tha lỗi cho chúng ta, thì tội đó nghiệp quả của nó vẫn không đoạn trừ được. Trừ bao giờ mà chúng ta trừ được cái nhân của nó, trừ được cái quả của nó, thì lúc bấy giờ mới thực sự đấy là kết quả của sám hối. Tức là làm cho cái tội đó không phát sinh, làm cho cái quả báo của nó không hiện hữu, thì đó mới là sám hối chân chính. Bây giờ ví dụ như một người phạm tội cố tình hoặc vô ý làm chết người khác chẳng hạn, mặc dù gia đình nạn nhân người ta có thể miễn tố trước tòa, người ta có thể làm giấy người ta bảo lãnh là người ta không kiện và không đưa người này ra tòa, nhưng về mặt pháp luật người vẫn xử. Có những trường hợp vẫn xử, dù pháp luật có xử hay không xử thì cái kết quả nhân quả của cái chuyện mà anh tạo nghiệp giết người, nó vẫn hiện hữu. Anh chỉ có xin lỗi người đời bằng cách là là xin lỗi mà người ta gọi là xí xóa cho anh. Nhưng mà tội đó không xí xóa được, về nghiệp nhân quả cái đó không không xí xóa được. Không phải là tòa án người ta không tuyên tội của anh hoặc gia đình người ta không truy cứu trách nhiệm mà anh hết được cái tội là giết người đâu, và dù cho hàng ngày anh đọc cái bài Vãng tích sở tạo trước Phật thì cái tội giết người ấy vẫn không có thể trừ được. Chúng ta biết rằng là trong nhân quả của Phật Pháp, có những điều mà chúng ta có thể trừ được, tức là những có những tội có thể sám hối được, nhưng có những tội không thể sám hối được, phải hiểu rõ vấn đề này, không phải tội nào cũng sám hối được. Ví dụ như trong năm giới thì giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nếu phạm vào tội ác và cực ác thì không được sám hối. Tôi nói ví dụ trong giới sát sinh, nếu mà chúng ta giết người là tôi ấy không thể sám hối được, mà không bao giờ sám hối mà sạch tội được, bởi vì nó là nghiệp ác, thuộc về nhân quả, nếu mà sám hối và sạch tội thì nhân quả ở đâu? Anh giết người là anh phải đền mạng, dù bất kể đền mạng trong trường hợp nào, dù anh vô tình giết người anh cũng cần phải đền mạng, mà cố tình giết người anh cũng phải đền mạng, tội đó không thể sám hối. Cho nên một người Phật tử mà đã thụ tam quy ngũ giới rồi, mà phạm tội giết người tức là anh mất tư cách làm Phật tử, phá giới tức là mất giới luôn, và đời này kiếp này không bao giờ được thụ giới lại, dù anh có bị cải tạo đi tù hai chục năm ra anh không có thụ giới lại, không bao giờ trở thành Phật tử được nữa. Trường hợp đó trong Phật pháp gọi là xiển đề, tức là cái hạt giống nó bị thui rồi, cái mầm hạt ở bên trong nó bị chết rồi, và anh không có cách nào anh làm cho nó sống lại được. Hoặc giả là trong điều giới thứ nhất gọi là sát sinh chẳng hạn, thì như tôi nói là ở trong các cái bài giảng trước, phá thai chẳng hạn. Nếu mà thai bảy tuần tuổi mà anh phá thai thì đồng tội giết người, và tội đó là không sám hối được, dù cho anh có là Phật tử hay không là Phật tử thì tội ấy không bao giờ sám hối, nghiệp ngoài ấy không trừ được. Cho nên chúng ta biết rằng kể cả những cái bậc đã tu chứng rồi đấy, mà nghiệp quả của nghiệp sát sinh vẫn không trừ được đâu, không trừ được đâu, nếu mà trừ được thì các Ngài đã đã sám hối được rồi. Chúng ta biết rằng Tôn Giả Mục Kiền Liên là bậc đại thánh, thần thông bậc nhất, và đã chứng quả A La Hán rồi, tức là đã chấm dứt được nghiệp sinh tử rồi, như trên đã nói. Nhưng cái nghiệp cũ đã thành quả rồi là không trừ được, do đó Ngài cũng phải trả quả báo kiếp trước là bị kẻ cướp đánh chết, bởi vì ngài quán nhân duyên rằng trong quá khứ Ngài cũng đã từng tạo tội là đánh chết người ta, và kiếp này Ngài cũng phải đem cái thân cuối cùng này, mặc dù đã chứng thánh quả, để cho người ta đánh chết trả nợ. Cho nên đó là nhân quả, có vay là phải trả. Và những trường hợp đó là không sám hối được, còn nếu mà đã sám hối được thì các Ngài đã sám hối nó đã sạch tội rồi. Bản thân đức Thế Tôn của chúng ta, thành vô thượng chính đẳng chính giác rồi, nhưng đời này, kiếp này chúng ta biết rằng Ngài vẫn còn có dư báo ở những đời trước, thành Phật rồi mà dự báo đời trước đã trừ sạch được đâu. Nếu mà đã sám hối được những cái tội ấy thì các ngày đã sám hối sạch từ lâu rồi. Cho nên Đức Thế Tôn trong cuộc đời của Ngài từ lúc thành Phật cho đến lúc nhập niết bàn, trong sử sách ghi lại, Ngài có tám lần gặp nạn, và tám cái lần đó Đức Thế Tôn đều nói rằng đó là nghiệp của quá khứ, mặc dù là các Ngài có tu hành có tiêu trừ được, nhưng mà có những thứ nó không tiêu được. Ví dụ như chúng ta ăn cơm và trong ruột nhờ sức nóng của cơ thể này khác các thứ, rau cỏ là có thể tiêu được, nhưng mà chúng ta nhốt hòn đá vào trong ruột là nó không tiêu được, nếu mà nuốt vàng vào ruột không tiêu được, nuốt kim cương không thể tiêu được. Cho nên có những cái mà có thể tiêu hóa được, đấy tội thì cũng có những tội mà có thể trừ diệt được nhưng có những tội là không sám hối được. Đây là phải hiểu rõ cái vấn đề đâu là sám hối, đâu là không thể sám hối. Còn cái giới thứ hai là giới trộm cắp chẳng hạn, trong luật quy định là ăn trộm từ năm tiền trở lên là mất giới, tội đó không được sám hối. Đối với pháp luật Việt Nam bây giờ, thì quy định nếu ăn trộm, một người Phật tử mà ăn trộm dẫn đến kết quả là có thể dẫn đến đi tù, mặc dù là pháp luật người ta có bắt bỏ tù hay không thì cái tội ấy là tôi cũng không sám hối được rồi và chúng ta mất tư cách là Phật tử rồi. Ví dụ như là pháp luật bây giờ người ta quy định được một triệu đồng trở lên, hoặc năm triệu trở lên chẳng hạn, đó là là phạm pháp và có thể dẫn đến là tù, hoặc là mất tư cách công dân đấy, nói như ngoài đời là bị xử mất tư cách công dân, mà mất tư cách công dân, người công dân đã không còn tư cách nữa thì làm gì có tư cách làm phật tử, cái đó nghĩa là tương đương mất giới. Hoặc là tà dâm chẳng hạn, một người phật tử mà chưa có gia đình mà anh có quan hệ trước hôn nhân, thì đó là phạm tội tà dâm, anh có gia đình rồi mà anh có quan hệ với người mà không phải vợ chồng, kể cả là bây giờ gọi là những trường hợp mà gọi là mua bán dâm, hai bên thỏa thuận với nhau chẳng hạn, thì vẫn phạm tội là mất giới, và trường hợp đó là không sám hối được. Không thể cách nào mà ăn năn. Kể cả là chúng ta có làm cách này cách khác là không có sám hối được. Hoặc giả là trường hợp là giới thứ tư mà chúng ta nói là giới vọng ngữ chẳng hạn, giới vọng ngữ thì thì mất giới trong cái trường hợp là phàm nhân xưng thánh. Cái người mà tu hành mà chưa đắc quả, mà tự xưng là mình chứng thánh quả, cho rằng tôi chứng sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả, hoặc là cố tình làm những chuyện kỳ dị để cho người ta nghĩ rằng các vị ấy đã tu hành đắc đạo, thì đó là một dạng lừa gạt. Bởi vì để làm cho người ta hâm mộ anh, mà anh được cái danh rồi anh được cái lợi, ví dụ như vậy. Hôm trước tôi nói rằng, những người phật tử mà hầu đồng hầu bóng chẳng hạn, thì rõ ràng lúc đó là phàm phu, người thế gia người mà miệng trần bóng thánh, phán xét lung tung và như thế là phạm vào cái giới thứ tư- tức là đại vọng ngữ. Đại vọng ngữ tức là kẻ phàm phu mà tự xưng là Thánh nhân. Hoặc là trong Kinh nói là nói rằng là tu hành mộng thấy Phật, hoặc là trời đến, quỷ thần đến rồi cung kính tôi, rồi mách bảo cho tôi, báo mộng chuyện này chuyện khác…, tất cả những cái chuyện đó thuộc về giới đại vọng ngữ. Mình không hiểu rõ nhưng mà mình tự nói để làm cho người khác hoang mang, rồi dao động, dẫn đến là tin nhảm tin quỷ, tin thần. Những trường hợp đó là mất giới, trường hợp mất giới như vậy là chúng ta phải biết rằng là những lỗi ấy không sám hối được, còn những các cái mức ở dưới mức đó thì mới có thể sám hối, ví dụ như vậy. Tức là cái tội ấy có cứu được không, có sắm hối được không. Thế còn những hình thức sám hối sai lầm thì ở trong chúng ta đã thấy rồi, cúng tế thần linh rồi giết con vật lấy máu lấy thịt, trong Kinh Dược Sư nói rằng- xem bói thấy xấu rồi giết hại chúng sinh, cúng tế quỷ thần, để cầu cho mình được bình an hạnh phúc thì đó là tà giáo. Hoặc giả, các tôn giáo khác cũng thế, ví dụ như là có sai có lầm, rồi lại phải sửa lễ để sám hối quỷ thần, sám hối thần thánh rồi giết vật, để sám hối, cái đó không phải là sám hối được, đấy là cách sám hối sai lầm. Ở đây nói đến cái bốn phương pháp sám hối chân chính. Thì thực ra ở đây nói, tội do cái tâm mình tạo ra thì cũng phải do từ tâm mà trừ duyệt. Bốn phương pháp này là bốn phương pháp nêu hiện tại thôi. Chứ thời Đức Phật còn tại thế, thời đức phật còn tại thì nó chỉ có tồn tại hai phương pháp thôi, đó là phương pháp là tác pháp sám hối và pháp thứ tư ở đây, ở trong đây là có lẽ là người ta ghi sai đấy, nó là vô sinh sám hối chứ không phải không phải là vô danh, thì trong giáo lý căn bản của đức phật thì có hai con phương pháp này thôi, tức là phương pháp sám hối bằng tác pháp và phương pháp quán vô sinh. Còn hai phương pháp thủ tướng sám và hồng danh sám là do chư tổ sau này đặt ra. Bởi vì thời Đức Phật còn tại thế thì làm gì có phương pháp hồng danh sám và cũng không có phương pháp thủ tướng sám. Hai phương pháp này là chỉ thời bây giờ có, tức là như trong sách dẫn ở đây là các phương pháp do các tổ sư, lấy danh hiệu của Chư Phật ở trong kinh rồi soạn ra cái nghi thức để cho người ta lễ sám. Thế thì ngày nay thì nó tồn tại bốn cái phương pháp này. Mà cái phương pháp mà tác pháp ấy, thì tác pháp như thế nào, ở trong đây nói rằng là phải lập giới đàn thì có lẽ là cái từ này nó chưa phải là chuẩn xác. Và chúng ta lại hiểu nhầm thành ra phải làm một cái đàn tràng thế này thế khác để sám hối thì không phải. Mà cái chữ giới đàn là cái cái đàn để chuyển giới thì lại không phải là cái đàn để sám hối, tác pháp sám hối là ở đây nó thuộc về pháp sám hối của người xuất gia, không dùng cho phương pháp của người tại gia, nếu một vị Tỳ Khiêu, khi một vị Tỳ Khiêu Ni, một vị Sa Di, Sa Di Ni khi phạm tội, vi phạm vào một điều giới nào đó, thì lập tức phải đến trước một vị Tỳ Khiêu hoặc một vị Tỳ Khiêu Ni thanh tịnh để phát lộ, tức là trình bày những điều mình đã vi phạm. Mà vị Tỳ Khiêu, Tỳ Khiêu Ni phải thanh tịnh, đó là điều thứ nhất. Thứ hai là người ta phải am hiểu giới luật, để người ta xem rằng cái việc làm đó, nó vi phạm ở đâu, động cơ thế nào, và hình tướng phạm tội thế nào, và dùng phương pháp nào để sám hối. Sau khi chỉ rõ như vậy thì lúc bấy giờ những trường hợp mà cần sám hối với một người, thì người đó đối với một người sáng hối, nếu cần phải đối trước hai người thì đối trước hai người, cần đối trước ba người thì đối với ba người, cần đối với bốn người thì đối với bốn người, và cân đối trước năm người, mười người, hai mươi người, trong giới luật của Phật có quy định, có những tội thì đối với một người sám hối là được. Có những trường hợp phải đối trước ba người, có trường hợp phải đối với bốn người, có trường hợp mà đối trước năm người, có trường hợp đối với mười người, với trường hợp đối với hai mươi người, và có những trường hợp phải đối trước toàn thể tăng đoàn để sám hối. Sám hối ở đây là có nghi thức ở trong tăng đoàn, về cách thức xưng tội và cái điều quan trọng là sám hối là nhận ra tội lỗi đấy, phát lộ những cái điều đó trước Tăng, và Tăng xác nhận rằng người đó đã ăn năn, đã sửa lỗi và có những trường hợp mà người ta phải sau khi mà phát lộ như vậy, thì phải có những hình thức, giống giờ chúng ta gọi là kỷ luật đấy, để cho các vị có cái thời gian để đóng cửa suy nghĩ, rồi phải chấp lao phục dịch làm những việc này, việc khác để nhìn nhận ra tội lỗi của mình, thấy được cái sai lầm đó và không bao giờ muốn tái phạm lại nữa từ trong tâm- cái đó là đoạn tương tục tâm. Lúc bấy giờ đối trước Tăng để ăn năn phát nguyệt cuối cùng, và Tăng mới xác nhận rằng, người đó đã hoàn toàn thay đổi, thì những trường hợp đó sám hối được, và những tội ấy có thể chấm dứt được, nhưng chúng ta phải nói những trường hợp đó là những trường hợp phạm tội khinh, chứ không phải thuộc tội nghiêm trọng. Nếu mà tội nghiêm trọng như là chúng ta đã nói ở trên, nếu đã phá giới thì không cách gì sám hối được. Phạm tội bậc trung và bậc nhỏ, tức là trong Phật pháp là chia tội nó có ra loại ba bậc, cực trọng tức là thuộc ngũ nghịch, thế rồi cực trọng và trọng là không sám hối, không thể sám hối được, còn bậc tội bậc vừa và bậc nhỏ thì có sám hối và có chỉ ra phương pháp, cái đó gọi là tác pháp sám hối. Tác pháp là Tăng phải tác pháp yết ma. Thế còn, đối với người tại gia, thì sám hối thế nào. Ở đây nói rằng nếu mà chúng ta vào ngày Bồ Tát thuyết giới của chư Tăng, trong giới luật của Đức Phật, người phật tử tại gia cũng phải tụng lại năm giới hoặc đến trước Chư Tăng để sám hối những chuyện đó, và kiểm điểm trong nửa tháng xem có vi phạm điều gì trong năm giới hay không, tức là ở cái mức độ mà có thể sám mới được, thì Phật Tử tại gia chúng ta cũng phải đối trước các vị xuất gia Tăng hoặc Ni để thú tội. Thanh tịnh để thú tội, tức là phát lộ, trong cái sám hối có cái trừ phát lộ, phát lộ tức là bày tỏ tội lỗi. Và người ta sẽ phải hỏi chúng ta để xem là cái tâm lý phạm tội thế nào, động cơ phạm tội thế nào, cách thức phạm tội thế nào, để xem xét cái việc đó nó nghiêm trọng đến mức độ nào, và cái trường hợp ấy có thể xử lý được không, nếu người ta có thể xử lý được thì người ta sẽ hướng dẫn cho chúng ta cách để xử lý, giống như là nói đơn giản như là chúng ta đi khám bệnh đấy, khám bệnh người ta có bốn cái nguyên tắc: Vọng – văn – vấn – thiết. Vọng trước hết là người ta phải nhìn cái sắc mặt của chúng ta, nhìn cơ thể, nhìn diện mạo, nhìn con mắt, nhìn lưỡi, người ta kiểm tra hết, nghĩa là vọng. Văn đấy là nghe chúng ta, cái giọng nói của chúng ta, mà nghe chúng ta kể bệnh, khi kể bệnh thì chúng ta cũng chưa thể đã hiểu hết được cái gọi là hiện trạng của bệnh lý thì người ta sẽ phải hỏi, đau như thế nào, đau ra làm sao, rồi đau ở chỗ nào đau bên trong hay là đau bên ngoài… rồi các hiện tượng đau thế nào, đấy gọi là Vấn. Và Thiết cuối cùng là người ta mới khám, có các cái cơ sở ở trên rồi, người ta mới kiểm tra lại ở trên mặt lâm sàng, phân tích bệnh tình để tìm ra cái nguyên nhân, tìm ra cách chữa, và lúc bấy giờ người ta mới đưa ra phương pháp chữa được, thì cách mà chúng ta sám hối thì nó giống như cách chữa bệnh. Có bệnh có thể chữa được, có những bệnh là không chữa được, thầy thuốc cũng không thể chữa được, cho nên người ta bảo chữa được bệnh không chữa được mệnh. Thế thì trong Phật Pháp cũng vậy, có tội sám hối được, có tội cũng không sám hối được, nhưng mà muốn sám hối là người ta cũng phải hỏi, cũng phải kiểm tra, cũng phải xem xét về mặt tâm lý phạm tội một cách kỹ lưỡng, và những cái này nó phải liên quan đến giới luật, trong luật pháp phải có các bậc luật sư, cũng giống như là là ở bên ngoài là phải có thầy thuốc chuyên môn, ở cái khoa nào thì phải khám ở chuyên môn đó, chúng ta mà mà đau chân lại đi lại khám ở cái khoa răng hàm mặt thì không ra bệnh. Thế thì nó phải đúng chuyên khoa. Ở đây là phải nếu mà liên quan đến tội lỗi là phải những vị chuyên về giới luật. Chứ những vị là Pháp Sư rồi, những vị mà Kinh Sư rồi, những vị Luận Sư là không thể hiểu rõ cái cách đó mà chỉ cho chúng ta cách sám hối, phải có cái chuyên môn như vậy, thì đối với phật tử tại gia thì chúng ta phải làm như vậy. Nhưng mà thực ra có một cái điều như thế này, trong trong giới luật thì có quy định rất rất rõ về vấn đề này, nghĩa là chúng ta phạm tội lúc nào là phải nhận thức ra cái chuyện chúng ta phạm là phải phát lộ ngay, và phải sám hối ngay, chứ không phải đợi đến ngày mười bốn, hoặc ngày ba mươi mới phát lộ được, ngày hôm đó chúng ta gọi là kiểm tra lại trong nửa tháng, nếu chúng ta phát hiện ra hôm nay chúng ta phạm tội, trong giới luật quy định rất chặt chẽ thế này, mà ngày mai chúng ta mới phát lộ, thì chúng ta ngoài cái tội căn bản đã phạm, nó còn phạm một là tội che giấu, cứ qua một đêm mà không phát lộ thì có một cái tội che giấu phát sinh, và cứ mười ngày thì có mười tội che giấu và các ngày che dấu nó lại có tội của che giấu nữa , giống như chúng ta phát hiện ra bệnh cái mà chúng ta chữa ngày ấy thì rất đơn giản, có thể khỏi ngay. Nhưng mà chúng ta cứ để trầm trọng qua ngày này qua ngày khác, đến lúc không cứu vãn được rồi mới đi để khám để chữa, thì chữa rất khó, và có những bệnh là rất nhỏ nhưng có thể cướp đi tính mạng. Tội lỗi của chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta cứ để chồng chất ngày này qua ngày khác, thì ngoài tội căn bản nó rất nhỏ, nhưng mà tội các cái tội tòng sinh, tội phú tàng, tội che giấu, tội cố ý che đậy, tội cố ý tiếp tục nói dối, thì những các cái tội ấy nó làm cho cái tội căn bản sẽ nặng lên, đấy nguyên tắc của trong trong giới luật của Phật như vậy. Ví dụ như, các vị phạm tội ngày đầu tháng, đến tận ngày mười bốn các vị mới phát lộ, thế thì ngoài tội căn bản nó cũng có ngần này tội tòng sinh, mười bốn ngày có mười bốn tội căn bản tòng sinh của tội phú tàn, nhưng mà chúng ta thử nghĩ mà xem trong luật và có tính chi li lắm, nếu ngày thứ nhất có tội tòng sinh, thì đến ngày thứ hai thì có tội tòng sinh của tội căn bản, và lại có tội tòng sinh không phát lộ của tội tòng sinh hôm trước, cái này nó giống như bên ngoài người ta gọi là lãi mẹ đẻ lãi con, tức là cứ ngày nào người ta cộng lại vào gốc, ngày mai người ta lại tiếp tục tính lãi của cả gốc cả ngọn, rồi ngày kia người ta lại tính lãi của cả gốc cả cả ngọn của cả ngọn, ngọn ngày hôm trước, ngày thứ nhất là ngọn của ngày thứ hai, và như thế tính ra nếu trong nửa tháng như vậy thì nó sẽ có tới ba mươi sáu cái tội tòng sinh, chứ không phải là mười một như vậy thì tội. Như vậy tội lỗi trở nên nghiêm trọng, mà chúng ta nhiều khi mà chúng ta sám hối, chúng ta không nhận thức được tội, không biết là sám hối tội nào, cứ nói chung là con xin sám hối thì tội không thể trừ được, giống như là chúng ta mà đau chân mà lại đi nhỏ có thuốc vào mắt thì tội không thể khỏi. Do đó, cách mà gọi là tác pháp sám hối này phải chỉ rõ tội, chúng ta phạm tội như thế nào, rồi quý vị luật sư người ta phân tích tâm lý phạm tội ra làm sao. Có những tội phạm tội do tâm lý, có những tội do sinh lý, có những tội nó do vật lý, cơ thể vật lý nó có thể sinh tội, cơ thể sinh lý nó có thể dẫn đến tội, những ngày sinh lý nó hoạt động mà chúng ta không kiểm soát được cái sinh lý nó sinh tội, có những vấn đề là do chúng ta là chủ động trong mặt tâm lý nó sinh tội, thì những các cái vấn đề nó cùng một cái tội như vậy nhưng mà do tâm lý khác nhau, do sinh lý khác nhau, do cái cơ thể vật lý khác nhau, thì nó dẫn đến kết quả tội lỗi khác nhau, và do khác nhau như vậy thì phải có cái cách thức sám hối khác nhau, thì nó mới khỏi được, chứ không có một cái loại thuốc nào để chữa cho tất cả các bệnh, và không có một cái phương pháp sám hối nào để có thể sám hối mà cho tất cả các tội lội. Chúng ta phải học chúng ta phải hiểu như vậy, cho nên là không thể chỉ bảo là mỗi một ngày mà chúng ta cứ không biết là tội lỗi thế nào, thôi cứ nên đọc cái bài vãn tích sở tạo, cho rằng đó là cái phương thuốc, gọi là chữa được tất cả các bệnh thì không phải đâu. Các bài sám hối ở trong các khóa tụng nó thuộc về nghi thức, như thế thôi. Bởi vì chúng ta cứ đọc: vãn tích tích sở đạo chư ác nghiệp, giai do vô thỉ tham sân si, nhưng chúng ta có phát lộ cái tội chúng ta đã làm đâu, chúng ta có nhận diện ra được nó đâu, mà đã không phát nội ra tội, mà tội mà không nhận diện ra được tội thì không cách nào trừ được, không biết là nông sâu thế nào, không biết là nặng nhẹ thế nào, không trừ được mà không không tìm ra được cái phương thuốc nào để mà trừ nó được cả. Cho nên là những trường hợp đó không xử lý được, đấy chính là phương pháp gọi là tác pháp sám. Tác Pháp thì sám hối rất dễ, bởi vì chỉ cần Chư Tăng xác nhận và chúng ta phát lộ một cách chân thành là tội nó diệt ngay lập tức. Nhưng phương pháp này dễ là như vậy, nhưng lại khó ở chỗ là, chúng ta hàng phật tử tại gia không phải lúc nào cũng tìm được các vị Tăng Ni thứ nhất là phải thanh tịnh, thứ hai là hiểu luật để mà sám hối được cả. Nếu không tìm được các vị ấy, giống như chúng ta ở ngoài đời có bệnh nhưng mà không không gặp được đúng thầy, đúng thuốc. Gặp thầy cho trái thuốc thì làm cho bệnh nó tăng thêm. Giống như trên tôi nói, chúng ta bị đau chân, nhưng mà ông thầy thuốc không phải là chuyên khoa về xương về chân, mà chuyên khoa về mắt, ông chỉ cho cái thuốc đau mắt thôi. Mắt chúng ta mà đang sáng nhiều khi mà nhỏ thuốc vào nhiều khi bệnh ở chân không khỏi, nhưng mà cái mắt không cẩn thận những cái nó hỏng. Đấy là cái khó, cái khó nữa là không phải ai cũng đủ dũng khí để phát lộ tội lỗi trước người khác, chúng ta làm những chuyện gì mà có lỗi mà bây giờ đến đến gặp các Sư mà mà xưng tội. Tại sao bên công giáo người ta có pháp xưng tội, mà xưng tội người ta phải vào cái phòng kín, vị linh mục là không được phép nhìn mặt người xưng tội, người xưng tội cũng không nhìn thấy vị linh mục, cách nhau một cái bức vách và tự xưng. Bởi vì linh mục không được phép biết tên cái người đó, không được phép biết mặt, để tránh hôm sau mà nhìn thấy mặt là bảo à cái đứa này có tội, ở trong tâm có ác cả cảm, và để cho người ta không nhìn thấy cái cái vị linh mục thì người ta tự do, giống như là là xưng tội một mình thì người ta sẽ dễ cách xưng, đó là cái cách xưng tội của họ. Cách mà chúng ta gọi là phát lộ sám hối, tác pháp sám là phải phát lộ trước Tăng, phải có đủ dũng khí. Hiện nay ngay kể cả những người xuất gia mà không đủ dũng khí cũng không không dễ gì phát lộ tội này đâu. Người ta thường là có cái tâm lý che giấu tội lỗi, mình làm chả mong cho ai cả, giấu nhẹm đi. Kể cả người khác có nhìn thấy mà người ta có nói phải cãi ngay, tội nó nặng. Phương pháp gọi là tác pháp sám hối trước Tăng là điều rất dễ thực hiện và rất dễ để trở nên thanh tịnh, nhưng mà cũng ngày nay là hết sức khó, bởi vì khó là như đã nói không có Tăng thanh tịch, không có người hiểu rõ giới luật, và cái khó thứ ba nữa là chính bản thân chứng ngại chúng ta là gì, không đủ dũng khí để phát lộ. Chính vì không làm được chuyện đó nên Chư Tổ mới dùng hai phương pháp sau, đó là thủ tướng sám và hồng danh sám. Thủ tướng xám và hồng danh sám có cách thức giống nhau. Tức là không phát lộ trước Chư Tăng, sợ rằng là các vị không thanh tịnh, rồi cũng sợ rằng là các vị không rõ luật thì thôi thì bằng cách là thôi cứ âm thầm phát lộ trước Phật. Ở đây sám hối là phải đối trước tượng Phật, Bồ Tát, chúng ta thật sự ăn năn nhưng mà phải phát lộ, phải bày cái tội ấy ra, tức là kính bạch Thập Phương Chư Phật hay Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật- hôm nay con trót lỗi lầm, con đã nói những lời cáu giận với ba con, với mẹ con, lúc bấy giờ con không kiềm chế được bản thân nên là con đã nói những lời không phải, và con cũng đã thực hiện xin lỗi cha mẹ rồi, nhưng mà nay xin đối trước Phật là giãi bày cái tội này. Đấy là phải một lời giải bày, và lúc bấy giờ chúng ta phải dùng hết thân tâm để lạy Phật để xin cho cái nghiệp chướng này, cái nghiệp này nó tiêu trừ, mặc dù chúng ta xin lỗi bố mẹ, bố mẹ bảo ừ thôi tha cho, nhưng mà tha là quyền của bố mẹ, cái nghiệp mà chúng ta không sám ấy thì nó vẫn còn, nó còn nó dẫn đến đời sau mà khi chúng ta có con cái, hoặc những đời sau thì lại gặp lại cái đứa con của chúng ta nó sẽ bất kính bất hiếu với chúng ta, đấy là nhân quả. Mặc dù là bố mẹ có tha tội cho, nhưng mà tôi nói là cái nghiệp ấy không có tha được. Cái nhân quả nó tự tạo ra thì đến kiếp sau là gặp con bất hiếu, ví dụ như vậy, hoặc là con nó cũng cãi giả như vậy, bởi vì chúng ta cũng đã từng cãi giả cha mẹ chúng ta, đời này kiếp khác cho nên chuyện mà gặp con cái nó cãi giả là chuyện bình thường, không có đổi lỗi cho chúng ta được. Học phật thì phải hiểu rõ cái nguyên lý như thế mà chúng ta phải gì phải thực hiện lễ Phật để sám, để tiêu được cái cái nhân đi, thì kiếp sau mới không gặp những chuyện đấy. Còn nếu mà chúng ta ở trong tâm nó vẫn còn có cái đó, mà sám nó không tiêu thì không được. Thủ tướng sám hối là thế nào, đối với những trường hợp mà tội nghiêm trọng, tội trọng thì phải sám hối đến khi thấy được hảo tướng, có thể là lập đàn để sám hối, tức là nhập thất đấy, ba ngày, năm ngày, bẩy ngày, yên tâm để lễ sám thôi. Một ngày cả hai mươi tư giờ trong đó chỉ có trai giới lễ sám, buông hết mọi duyên để đoạn được cái tương tục tâm, rồi chí thành đảnh lễ chư Phật, năm vóc sát đất, cái này không phải chúng ta lễ Phật mà Phật trừ tội cho chúng ta đâu, không phải đâu. Chúng ta tự ăn năn để cho cái tâm của chúng ta hối hận về việc mình đã làm, và mình nguyện không bao giờ tái phạm nữa, để cho hạt giống trong tâm thức về những cái tội lỗi ấy nó cứ trừ dần, trừ dần, khi mà nó trừ đủ thì giống như nước được để lắng – nó tự trong, lúc bấy giờ ánh sáng là tự xuất hiện, thì lúc bấy giờ thì trong trong thủ tướng sám hối là phải thấy được thụy tướng. Ví dụ như là thấy Phật Bồ Tát xoa đầu, thấy hương thơm, thấy hào quang rồi thấy những điểm tướng, rồi trong các câu chuyện của các bậc tổ sư khi sám hối như thế rồi có bệnh tật tự nhiên thấy, bao nhiêu những cái gọi uế khí trong người nó nôn ra hết, rồi có nhìn thấy cả sâu cả bọ, các thứ chui từ trong người ra, bệnh tự nó trừ, tội nó cũng tự nó tiêu, hoặc là những các cái ngu si mê hoặc nó tự tan đi. Tất cả mọi thứ người đã thay đổi trở thành con người mới hoàn toàn, thì cái đó gọi là thủ tướng. Thủ tướng tức là gì phải có một cái tướng gì để đảm bảo cái sự sám hối của anh là đã sạch tội, tức là phải có một cái hiện tướng để đảm bảo chắc chắn rằng tội đã tiêu diệt, thì phải có các cái tướng lành hiện ra. Trong kinh nói – tiếng lành hiện ra như là thấy hào quang, thấy hoa sen, thấy Phật, thấy Bồ tát xoa đầu thụ ký – lúc bấy giờ mới tội mới sạch. Nhưng có những trường hợp như thế thì không phải năm ngày, bẩy ngày mà mà đã có cái thụy tướng này đâu, có những người sám cả đời không được chứ không phải là dễ, bởi vì hôm nay sám, mai lại tiếp tục, không bao giờ sám được cả, tâm chúng ta là như vậy. Còn hồng danh sám thì gọi là lễ Ngũ thập tam Phật, Tam thập ngũ Phật, cho đến là Thập đại nguyện của bồ tát Phổ hiền cộng lại một thành một trăm linh tám. Một trăm linh tám lễ này cho rằng, mỗi một lễ mà chúng ta chí thành lễ như thế thì tiêu trừ được một thứ tội lỗi, thế thì chúng ta đâu có một trăm linh tám tuổi đâu, tội quá khứ tội hiện đại tội tương lai, cho nên là nếu mà mỗi một ngày có lễ một trăm linh tám lễ, cho rằng là tiêu trừ được một trăm linh tám phiền não. Phiền não tức là tội lỗi, thì chúng ta biết là chúng ta có vô thủy kiếp, có vô lượng tội lỗi, từ lúc chúng ta ra đời cho đến bây giờ cử túc động điện vũ phi thì tội. Tôi nói thật với các quý vị Phật tử là nếu chúng ta không tu hành một cách chắc chắn, từ lúc sáng cho đến bây giờ thôi, mà chúng ta ngồi lại, chúng ta thử kiểm điểm xem một ngày hôm nay chúng ta tạo bao nhiêu tội chúng ta cũng không nhớ được. Cái tội khó kiểm soát nhất chính là cái tội ở miệng và cái tội trong tâm. Thân là cái thô tội nó dễ kiểm soát, sát sinh trộm cắp tà dâm thì cái cái đó đối với chúng ta nó thuộc về thô tướng có thể kiểm soát được, nhưng mà cái tế tưởng của nó bên trong chưa chắc. Tôi nói là cái cái thô tướng là chúng ta tạm kiểm soát được, nhưng mà cái tế tướng ở bên trong là chưa hẳn chúng ta đã đoạn được đâu, cái đó phải đến các vị La hán mới đoạn được, bản thân chúng tôi phàm phu những cái đó chưa chắc cũng đã đã sách hết được. Tôi nói ví dụ một cách đơn giản thôi trong trong kệ nói rằng, khi chúng ta cầm chén nước lên uống, chúng ta không đọc kệ, chúng ta không niệm thật thì đã phạm tội sát sinh rồi. Quán nhất bác thủy bác mạn tứ thiên trùng, nhược bất thì thủy trú như thực chúng sinh nhục- Phật nhìn trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn vi trùng, nếu mà uống chén nước này không tụng kinh niệm phật thì cũng giống như là tội sát sinh không khác. Thế thì một ngày chúng ta uống nước bao nhiêu lần, mà mỗi một lần uống nước thừa chúng ta đã tác ý niệm kệ, niệm Phật không. Những người phải rất là cẩn mật mới có thể làm được, còn nếu không như tôi nói kể cả người tu hành xuất gia cho đến người tại gia, đấy cái tế tướng này chưa chắc đã đoạn. Kể cả tắm rửa cũng phải đọc kệ, bởi vì trên thân thể chúng ta thật nói tám vạn bốn nghìn lỗ chân lông này, tám vạn bốn nghìn hộ trùng, hộ trùng tức là cái nơi mà vi trùng nó trú ngụ nó ở, nó sinh sản ở trong đó hàng ngày, kể cả bây giờ chúng ta có bệnh mà chúng ta uống thuốc để cho nó tiêu diệt vi khuẩn vi trùng cũng là sát sinh, vi tế là nó vẫn thuộc tội sắp sinh, nhưng mà vì chúng ta bảo vệ mạng sống của chúng ta là chúng ta phải hy sinh nó. Cho nên nếu mà xét về tội vi tế nó vẫn có, nhưng mà bởi vì các loại vi trùng đó nó quá nhỏ cho nên là Đức Phật nói đó thuộc tế tội, là những cái tế tội này thì chúng ta lễ hồng danh Phật hàng ngày có thể trừ được, nhưng mà mạng chúng sinh lớn hơn thì thì cách đấy lại không trừ được. Cho nên phải biết rằng là cái lễ ấy nó trừ được tội nào, tội nào không trừ được, chứ không phải là trừ mọi tội, không có thuốc nào mà uống một thứ thuốc mà bách bệnh tiêu tán vạn bệnh tiêu trừ đâu, mà cũng không có một cách sám hối nào sám hối một cái mà tất cả tội lỗi tiêu đâu. Sám hối mà tội nó tiêu hết thì trên thế gian này xin nói thật với các vị là không cần ai phải tu hành gì cả, cứ sám hối thôi là sạch tội, mà sạch tội là chứng thánh quả mà. Chúng ta biết là chứng thánh quả là A la hán là sạch tội, Phật Bồ Tát là sạch tội. Các ngài tu ba a tăng kỳ kiếp mới mới sạch tội, mà chúng ta cứ bảo là lễ như thế mà sạch tội, thì chả cần phải tu gì cả, cứ hàng ngày lên đọc bài vãn tích sở tạo chưa ác nghiệp là hết tội -đâu có chuyện đó. Giống như ngày đi ăn trộm rồi tối đến nhà thờ chấm nước thánh rửa tội là sạch tội, làm gì có chuyện đó, không đạo lý. Sám hối của chúng ta mà cứ bảo là chịu khó lạy Phật là sám hối, tâm chúng ta không nhận thức được tội lỗi, tâm chúng ta không thay đổi thì tôi cứ nói thật với các vị, nói nó hơi hơi khó nghe nhưng mà lễ cho có dập đầu gối, cho có toét đầu gối,có dập cả trán ra cũng không có tội nào trừ được cả. Trừ hay không nữa nó phải ở trong cái tâm này, tâm chúng ta có có đoạn được hay không, cho nên sám hối là đoạn tương tục tâm, tức là làm cho cái tâm phát sinh tội lỗi không có tương tục nữa, không còn cái gì để nuôi dưỡng nó nữa, làm cho cái tâm đó, tức là cái hạt giống xấu ác ở trong tâm nó phải chết đi, nó phải mục đi. Giống như là trong tâm chúng ta có rất nhiều hạt giống xấu thì bây giờ chúng ta phải tu thế nào, chúng ta sám hối thế nào để cho hạt giống đó tự mục, và đến khi đó mục nát rồi chúng ta có gieo nó không mọc được nữa, thì cái tội ấy là nó đã trừ. Còn chúng ta vẫn tiếp tục hàng ngày thổi cái sinh khí cho nó, thổi cái sức sống cho nó, cái sức sống của tội lỗi nó là do tham sân si, hàng ngày chúng ta cứ thổi vào, cứ tiếp sức nó vào, tiếp lửa vào, thì cái hạt giống tham sân si nó cứ bùng cháy mãi. Giống như là củi bếp, chúng ta mà không đưa nhiên liệu vào nữa nó cháy vào đâu mà nó tắt. Nhưng mà cứ đưa nguyên liệu vào thì nó cháy thôi, thì chúng ta cũng vậy, hàng ngày chúng ta vẫn cứ đưa nhiên liệu tham sân si vào trong tâm. Thế nên, hàng ngày tâm chúng ta nghĩ cái gì, bao nhiêu điều thiện, bao nhiêu điều bất thiện ở trong tâm, từ sáng đến tối chúng ta ngồi lại chúng ta cứ kiểm soát được là hôm nay chúng ta nghĩ bao nhiêu điều bất thiện khôn kiểm soát được. Mà đã không kiểm soát được làm sao mà phát lộ ra được, cho nên cứ đọc cái câu là tổng quát là vãn tích sở đạo chưa ác nghiệp thôi, giai do vô thỉ tham sân si, cứ đọc nhưng mà không nhận ra được. Thực ra những cái đó thuộc tâm vi tế mà chúng ta không kiểm soát, không thay đổi được, thì không tiêu diệt. Phương pháp sám hối ở đây phải hiểu nó là một phương pháp tu, mà tôi đã nói ngay từ đầu nó đã thuộc về pháp tứ chính cần trong Ba bẩy phẩm chờ đạo. Chứ không phải là cái hình thức mà chúng ta gọi là hàng ngày lạy Phật, rồi để sám hối rồi, đọc các bài văn sám hối soạn sẵn đấy là xong sám hối đâu. Đó thuộc về mặt hình thức- sự.
Cái quan trọng ở đây nói phương pháp thứ tư gọi là lý sám hối, gọi là vô sinh sám. Thực ra vô sinh sám này là pháp sám hối của đại thừa, bởi cho rằng là vô sinh sám là nó bắt nguồn từ đâu? Nếu hiểu không rõ thì chúng ta sẽ mắc vào vấn đề liên quan đến giáo lý, vô sinh sám cho rằng là tội từ tâm khởi, cho nên từ tâm diệt. Và cái vô sinh là cái gì, quán rằng thân này là thân năm uẩn, do vô ngã vô ngã cho nên không có người tạo tội, và do không có người tạo tội thì không có người chịu tội. Nếu mà quán như thế, hiểu được như vậy thì tội nó tiêu diệt, xin thưa cái chỗ này không cẩn thận nó trở thành tà kiến, nó trở thành nhầm lẫn. Việc này thời Đức Phật đã có người đặt câu hỏi rồi. Bạch Đức Thế Tôn, Đức Phật nói là vô ngã, vậy vô ngã thì ai tạo tội. Trong giáo lý của đức phật nói là chúng ta là vô ngã mà, vô ngã tức là không có cái tôi, nó chỉ là thân này là chỉ là tổ hợp của năm uẩn là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Không có ngã thì ai là người tạo tội, mà đã vô ngã thì không có người tạo tội sẽ không có người chịu tội, vậy thì cái nhận quả nó ở chỗ nào tại sao lại vẫn nói rằng là có nhân quả có nghiệp báo, và có nhân quả có nghiệp báo thì kiếp này tôi tạo tội thì kiếp sau tôi chịu rồi có đúng không? Không phải, bởi vì kiếp này của tôi với kiếp sau nữa của tôi là hai vấn đề khác nhau. Kể cả là bây giờ tôi nói một ví dụ này, chỗ này hết sức khó mà phật tử chúng ta không cẩn thận là nhầm, kể cả những người tu hành, học giáo lý của Phật, không rõ chỗ này cũng rơi vào cái tà kiến như vậy, cho rằng không có ngã thì không có người chịu tội, mà nói như thế là phỉ báng chính pháp. Phật nói vô ngã nhưng nói nhân quả, nếu theo cái lý luận như thế thì tôi xin nói là kiếp này của tôi tạo tội, kiếp sau tôi chịu tội đúng không? Nhưng mà làm gì có cái ngãi mà có cái tôi ở kiếp sau, mà tôi kiếp này là tôi là là một con người ví dụ gọi là được mệnh danh là Tiến Đạt, mà kiếp sau của tôi không phải là cái thân này nữa, kiếp sau này sinh ra thân khác rồi. Có thể là kiếp xong cứ gọi là là tôi được làm người đi, thì cái người kiếp sau không phải là cái người của tôi kiếp này phải không. Thì vấn đề đấy cái mà người ta gọi là vô sinh sám chính là đang lý giải cái chỗ này nhưng mà không phải. Kiếp này của tôi với kiếp sau là hoàn toàn hai kiếp khác nhau, và hai kiếp khác nhau là hai con người khác nhau. Nhưng cái nghiệp ấy mà dẫn đến từ kiếp này chuyển sang kiếp khác ấy, nó chỉ là một cái dòng chảy liên tục, mà cái bản chất của nó không có khác, mặc dù là kiếp sau là tôi phải thay hình đổi dạng, tôi có thể là kiếp sau không phải là người Việt Nam, tôi có thể sinh ở trung quốc chẳng hạn, thì tôi trở thành người Trung Quốc, tôi không nói tiếng Việt Nam nữa. Hoặc tôi sinh sang Mỹ chẳng hạn, tôi sinh sang nước Anh chẳng hạn, hoặc là trong thế giới Sa bà này tôi sinh ra một cái ở quả đất khác chẳng hạn, mà cái hình tướng của tôi bên ngoài nó hoàn toàn khác rồi, thì không phải là con người bây giờ nữa. Nhưng cái nghiệp thức dẫn đến chuyện chuyển sang kiếp sau và cái hạt giống đã tạo tác đời này thì tiếp tục nó dẫn đến kiếp sau và khi nó đủ nhân duyên thì nó sẽ phát ra quả, mà Phật nói là ta không nói cái ngã ấy đầu thai, ta không nói cái ngã ấy để chịu cái quả báo kiếp sau, mà ta chỉ nói là nhân quả. Đời này anh tạo cái nhân thế này, kiếp sau cái nhân ấy nó gặp duyên thì nó sẽ tạo ra quả có thế thôi, còn cái khoản ấy ai chịu thì cái hiện hữu của cái người đó ở cái thân tướng nào thì cái thân tướng đó chịu. Nếu anh rơi vào địa ngục thì làm gì còn có cái thân tướng này nữa, nó thành thân tướng khác rồi, nó thành một cái hiện hữu khác rồi. Hoặc kiếp sau mà làm súc sinh thì nó đã thành hình tướng súc sinh, thành con trâu con bò rồi. Cho nên là con trâu con bò đâu có phải là cái người này. Dù thân tướng có thay đổi nhưng mà cái dòng nghiệp lực nó vẫn tương tục nó chảy. Mà đến khi nhân quả đủ thì nó hiện ra cái nhân quả là anh chịu cái quả báo là anh sinh làm con trâu hay anh sinh làm con ruồi con muỗi. Và con ruồi, con muỗi không phải là cái anh kiếp này phải không? Nếu mà không cẩn thận bảo là thế thì làm sao mà tôi tạo tội, mà lại con muỗi nó thành chịu quả báo được. Cái chỗ mà vô sinh sám này nó là cái vấn đề nó rất là khó hiểu mà không chỉ hiểu đơn thuần như cái cách chúng ta hiểu rằng, rằng là cứ nói rằng vô ngã là không có người người tạo tội thì không có người chịu tội, nếu mà lý luận như thế là tà giáo, tà kiến. Đức Phật nói là ta chỉ nói nhân quả, tức là có nhân ấy sẽ có quả ấy. Mà quả bao giờ nó phát sinh thì nó phải đợi cái duyên, cho nên nói đủ là nhân duyên quả. Đức Phật nói là cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh phải không. Tất cả nó nó là một hệ thống, trong vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc. Cho đến là duyên sinh lão bệnh tử ưu bí khổ não, cứ thế thôi cả một sự vận chuyển của một chuỗi mười hai nhân duyên thôi, cũng không có gì khác ở trong đó cả, mà trong đó hoàn toàn không có ngã, không có người tạo tội và đã vô ngã thì đúng là không có người chịu tội, nhưng dòng chảy của nhân quả vẫn hiện hữu, chứ không phải là vô ngã là vô hết tội đâu nhớ, nếu mà hiểu theo cách vô sinh sám, mà bảo là quán đến cái thứ đại bản vô, rồi ngũ ẩn phi hữu thế rồi thân này cũng không có là tội nó tự tự hết đâu, không có cái chuyện đó đâu. Cách quán như thế thì người mà tu thiền thì họ vào được trong cái cái thiền minh sát tuệ là họ đã đã đạt được cái vô ngã rồi, hiểu được vô ngã rồi, nhưng mà tội lỗi nó vẫn hiện là nó vẫn hữu, nếu nói vô ngã thì các vị A la hán đều vô ngã rồi, những người chứng sơ quả người ta đã hiểu được lý vô ngã rồi. Nhưng họ có quả báo không? vẫn có,. Đức Phật như đã nói ở trên, có phải có dư báo không, ai vô ngã bằng đức phật. Nếu mà quán vô sinh thì ai vào cái cái quán vô sinh này sâu hơn đức phật, ai vào cái quán vô sinh lại sâu hơn các vị la hán, nhưng mà cái nhân quả quá khứ các ngày đã tạo, nếu mà các ngài quán như thế thì tất cả các nghiệp báo đời trước mà đã tạo là chấm dứt hết, thì không còn cái quả báo nào ở trên thân này nữa thì không phải. Nhưng mà có một cái điều thế này, chỗ vô sinh xám là phải hiểu thế này nó mới là đúng. Khi mà người ta đã quán được vô ngã và vô sinh, thì mặc dù có quả báo xuất hiện người ta không còn đau khổ nữa. Ví dụ như trường hợp của Ngài Mục Kiền Liên đã nói ở trên, ngài chủ động tìm đến để trả nợ cho họ và để cho nó đánh chết. Còn những chúng ta mà chưa tu chứng thì chúng ta là trốn nợ, nếu mà kẻ cướp nó đuổi là chúng ta phải chạy, giặc đến nó muốn lấy mạng chúng ta thì chúng ta phải trốn cho kỹ, chứ làm sao mà tự nhiên mang thân mạng đưa cái cổ ra bảo ông chém đi, không có chuyện đó. Bởi vì chúng ta còn đang tiếc mạng, chúng ta chưa đạt được cái vô sinh này, cho nên khi chúng ta bị nó chặt đầu là chúng ta đau, cho nên là trong Kinh Kim Cương, Đức Thích Ca có nói rằng: Một khi mà ngài tu tiên nhân nhẫn nhục bị vua Ca lợi vương lấy dao róc từng miếng thịt trên thân thể mà mà không thấy đau, lúc bấy giờ ngài đạt đến vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, tức là tâm không sinh sân giận, thì cái đó chính là vô sinh. Vì vô sinh cho nên ngay lúc bấy giờ trả nợ nghiệp báo cho người khác mà tâm không sinh sân giận, tâm không sinh hối tiếc thì cái đó chính là đạt đến vô sinh quán. Phải hiểu là như thế. Thế thì giống như là Đức Mục Kiền Liên của chúng ta là chủ động đi để trả nợ, mặc dù bị người ta đánh chết nhưng mà ngài rất hoan hỉ, không thấy thấy đau, mặc dù thân vật lý nó vẫn đau, đừng nói mà không đau. Chúng ta có cái đau về về về vật chất, nhưng cái đó là đau về vật lý, nhưng nếu chúng ta không tu thì khi cái đau vật lý ấy nó sẽ dẫn đến cái đau ở trong tâm và chúng ta không chịu được. Nhưng còn những người mà tu mà đủ định lực mặc dù cái thân thể vật lý nó đau, nhưng cái tâm nó không đau, ví dụ như là thời đại của chúng ta chứng kiến như Bồ Tát Quảng Đức chẳng hạn, chúng ta bị cái cái lửa que diêm nó xoẹt vào tay đã bỏng đau giật người lại phải không, cái đau đó là vật lý, nhưng mà chúng ta giật người lại nó là tâm lý, nhưng mà các Ngài chủ động được cái đó, nhập được vào trong đại định, mặc dù là chủ động dội xăng lên trên người rồi ung dung bật lửa cho cháy, mà vẫn ngồi yên ở trên tòa ngồi kết già mà thân không nhúc nhích, không có lay động, không có lăn lộn, thì đấy chính là các ngài có đau, nó đau về vật lý thôi, tức là đau về cái cơ thể vật chất nhưng mà trong tâm thì hoàn toàn bình thản. Cái đó chính là các ngài đạt đến vô sinh. Đấy cái đó chính là vô sinh quán. Tức là lúc bấy giờ là quán được cái chỗ là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Đấy hiểu cái vô sinh quán nó là như vậy, cho nên là Bồ Tát là gì, chịu tội cho tất cả xuống sinh, thay thế chúng sinh để chịu tội, đấy cái đó trong trong bát đại nhân giác là nói cái điều đó, thì phải hiểu như thế là đúng nghĩa vô sinh, chứ không phải là cho rằng là nhập vô sinh như thế là tất cả tội lội không còn quả báo trên thân nữa thì không phải. Lúc bấy giờ người ta vẫn có thể là lãnh chịu quả báo, nhưng mà tâm nó không phiền não, nó không đau đớn, nó không sinh ra bất kể một cái điều gì khác, thì đấy chính là đạt những cái vô sinh, và cái đó chính kim cương nói là đạt cái vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh vô đa dạ. Đây chính là cái mà mà gọi là pháp vô sinh quán, cho nên ở đây nói là cái pháp này rất cao và phải có người có trí tuệ, có định lực, phương pháp này không phải là dành cho cho những người tu một cách bình thường, kể cả phật tử tại gia và người xuất gia mà không tu thiền, không tu quán, không không hiểu rõ phương pháp này thì không bao giờ làm được.
Đối với Phật tử ại gia chúng ta thì nói tóm lại là chúng ta sử dụng có hai phương pháp thôi. Một phương pháp là đối chúng sám hối, tức là đối trước các vị Tăng Ni để phát lộ, và xin các vị chỉ dẫn cho cái phương pháp để sám hối. Với phương pháp này thì ngày nay ít sử dụng, phần lớn là chúng ta sử dụng bằng phương pháp phổ thông như chúng ta đã nói, tức là lễ danh hiệu Phật. Nhưng mà xin thưa, lễ danh hiệu Phật thì chúng ta cũng phải ăn năn, và phải phát lộ cái tội trước Phật, rồi xin sám hối mà hàng ngày lễ bái như thế để cho nó tiêu nghiệp. Cái phương pháp này thì nó là trợ duyên để cho chúng ta, nó chỉ có khả năng cái tiêu trừ được các cái tội nhỏ, tội vi tế. Những cái nó thuộc về định nghiệp, về định quả, định nhân, nhân quả nó đã đã xác định rồi, đã cố định rồi thì cách này không tiêu được.
Mong rằng là các phật tử của chúng ta là phải hiểu rõ như thế thì chúng ta mới có cái cách thức chúng ta áp dụng làm thế nào để cho chúng ta có thể sám hối một cách chân chính, và có thể tiêu nghiệp.
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 6: SÁM HỐI ( Phần Tiếp Theo )
ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 26.01.2022
GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI



