BÀI 8 TỤNG KINH, TRÌ CHÚ,NIỆM PHẬT
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính thưa đại chúng, hôm nay chúng ta tiếp tục bài thứ Tám với chủ đề về việc Tụng Kinh, Trì Chú và Niệm Phật. Xin mời các vị chúng ta đọc bài.
Kinh văn:
A. MỞ ĐỀ
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể được gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đạo. Bởi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
Giảng giải chi tiết
Trước chúng ta đã nói đến chủ đề thờ Phật, lạy Phật và cúng dàng Phật, ở đây tất nhiên chúng ta thờ, lễ và cúng dàng. Đối với Phật tử chúng ta có các phương pháp để tu tập. Ở trong các phương pháp tu tập này về mặt sự đơn giản nhất đó là các hình thức là tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật. Ở đây tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật để chúng ta thâm nhập giáo pháp của Đức Phật. Tụng Kinh là để đọc lại lời của Đức Phật, Trì Chú để giữ cho tâm của chúng ta hướng vào một điểm và Niệm Phật là để tâm chúng ta hướng về giải thoát giác ngộ. Có như vậy về mặt sự là thờ Phật, lạy Phật và cúng Phật, nó mới được hiển bề được mặt lý đó là tụng Kinh, Trì Chú và Niệm Phật. Sự lý viên dung thì mới hỗ trợ cho việc chúng ta tu tập đạt được thanh tịnh để giải thoát. Do đó, ở đây nói rằng nếu chúng ta chỉ thờ Phật, lạy Phật, cúng dàng Phật thì chúng ta mới chỉ đạt được đến cái phần sự ở bên ngoài mà thôi. Muốn thâm nhập được cái phần lý ở bên trong mà không rơi vào dị đoan mê tín, thờ cúng xuông, hình thức của nó chính là tụng Kinh, đó chính là Trì Chú, đó chính là niệm Phật. Phần này chúng ta đi vào cái phần nội dung chính của bài này là chánh đề. Chúng ta định nghĩa về Tụng Kinh, Trì Chú và Niệm Phật. Tôi xin nói cái chữ Tụng, Tụng là đọc thuộc lòng, bởi vì cái chữ này là chúng ta định nghĩa là tụng Kinh là chúng ta mang Kinh của Phật ra đọc mà chúng ta dùng sách để mà dùng mắt nhìn vào để mà đọc ra thành câu văn hoặc là chúng ta đọc thành tiếng hoặc là chúng ta đọc thầm, thì cái đó là đọc Kinh, chứ không phải là Tụng Kinh. Tụng là học thuộc lòng rồi đọc ra thì mới được gọi là tụng, nhưng thông thường bây giờ là chúng ta là cứ dùng sách để chúng ta nhìn vào để chúng ta đọc, đọc lại lời Phật thì cái đó là cũng quen gọi đó là Tụng nhưng mà thực ra nó không phải là nghĩa Tụng, chữ Tụng trong chữ chữ hán và Tụng trong Kinh điển của Đức Phật – Tụng Kinh tức là học thuộc lòng rồi đọc. Tại sao lại phải tụng đến cái mức thuộc lòng? Chúng ta biết rằng, khi chúng ta thuộc lòng thì chúng ta mới thâm nhập được và khi chúng ta có thâm nhập được mới có thể ứng dụng trong các công việc hàng ngày được. Nếu chúng ta không nhớ lời Phật thì đến khi chúng ta đối cảnh tâm đam mê thì không làm sao mà điều khiển tâm ấy được. Khi chúng ta thuộc lòng lời Phật dạy rồi, khi tâm chúng ta đối với cảnh thì lập tức những lời Đức Phật dạy mà chúng ta đã thuộc rồi, tự nhiên xuất hiện ra, và nó giúp cho chúng ta có năng lực đoạn trừ được phiền não, tăng trưởng được thiện căn, và thành tựu được công đức. Cái đó chính là tụng Kinh. Cho nên tụng là đọc lại thành tiếng có âm điệu, với một sự thành kính thì đây là chúng ta đang định nghĩa theo cái cách bây giờ. Chứ việc tụng Kinh là có từ thời Đức Phật rồi. Chúng ta nên nhớ rằng khi đức Phật còn tại thế, thì đức Phật thuyết pháp bằng ngôn giáo, tức là ngài nói và chúng đệ tử là nghe, và nghe là bắt buộc phải ghi nhớ, và để ghi nhớ được thì người ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần, cho đến thuộc. Khi các vị thuộc lòng như thế rồi thì các vị đi đến chỗ khác mà người ta hỏi, các vị sẽ đọc lại cho người ta nghe. Để tránh cái sự quên và nhầm lẫn thì hàng tuần, hàng tháng, hàng ngày Chư Tăng phải cùng nhau tập hợp lại một chỗ và đọc lại lời Phật. Cách tụng Kinh thời đức Phật là không phải là tụng tập thể như bây giờ, tức không phải mọi người cùng tụng cùng đọc. Mà chỉ có một người tụng thôi, còn đại chúng là nghe lại, như thế thì mới có công phu là nghe rõ được lời Phật dạy, tức là ôn lại lời Phật. Một người đọc với cái tâm thần kính rõ ràng rành mạch và đại chúng lúc bấy giờ nghe thì giống như nghe thuyết pháp và cũng giống nghe như từ kim khẩu của đức Phật nói lại bài pháp đó. Như thế có tác dụng chuyển tải lời pháp của đức Phật thấm sâu vào trong tâm của người nghe và bắt buộc người nghe phải dùng nhĩ căn để mà nghe Pháp. Còn bây giờ chúng ta tụng Kinh tập thể có ý nghĩa hoàn toàn khác, bây giờ đọc Kinh tập thể là đọc theo nhịp, theo điệu. Bây giờ mọi người chú tâm vào chuyện đọc cho đúng chữ câu, đọc cho đúng chữ, bởi vì chúng ta không thuộc, rõ ràng chúng ta phải đọc cho đúng câu đúng chữ. Khi chúng ta tụng Kinh như thế là chúng ta không nghe rõ lời Phật dạy, và khi đã không nghe được thì không biến thành văn tuệ, tức là nghe để phát sinh trí tuệ, nghe để hiểu và phần lớn là sau thời tụng Kinh như thế, hầu như chúng ta không có đọng cái gì vào trong tâm cả, và cũng không ghi nhớ được câu gì ở trong Kinh văn ấy cả. Cho nên nhấn mạnh tụng- học thuộc lòng, và người tụng đó người ta sẽ thay Phật tuyên dương, tức là thay Phật tuyên lại lời Kinh. Cho nên đại chúng nghe với cái tâm lắng nghe giống như là chúng ta nghe thuyết pháp. Đấy chính là phương pháp tụng Kinh thời đức Phật và nó kéo dài cho đến tận cả sau này. Cho nên chúng ta thấy, chỉ có Phật giáo Bắc truyền chúng ta sử dụng phương pháp tụng Kinh đại chúng và khi tụng chúng ta có dùng pháp khí tức là dùng chuông, dùng mõ để giữ nhịp cho nó đều, Vì nhiều người tụng cho nên nếu không có cách giữ nhịp là sẽ lộn xộn. Như thế chỉ mang cái tính chất là đọc Kinh theo lối hình thức. Chúng ta thấy Phật giáo Nam truyền, chư tăng người ta tụng Kinh thì người ta không dùng pháp khí, tức là người ta không có dùng chuông, mõ. Mà phần lớn là tụng theo cách truyền thống – chỉ có một người tụng thôi, còn đại chúng ngồi nghe. Cái đó mới gọi là tụng Kinh tức là tụng Kinh là đọc với tâm thành kính để đại chúng nghe lời đức Phật chỉ dạy. Cái đó là tụng Kinh. Thứ hai là Trì Chú. Ở đây chữ trì là nắm giữ, xin thưa với đại chúng thì đối với Phật giáo thời đức Phật không có các chú này, không có thứ chúng ta bây giờ gọi là thần chú, chúng ta cứ gọi thêm cái chữ thần vào để cho nó thành thần thánh, nó bí mật cho nó linh thiêng chứ thực ra là trong Phật giáo là không có chữ thần chú, cái chữ thần chú ấy trong tiếng Phạn đọc là Đà la ni, vô ngại Đà la ni hoặc là ta gọi là đạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh tịnh độ đà la ni. Chữ Đà la ni là dịch sang chữ Hán đọc thành chữ thần chú. Chữ Đà la ni là dịch nghĩa của nó là tổng trì, tổng trì là tổng nhiếp Phật pháp. Vì để nguyên bằng âm tiếng Phạn mà không có giải thích cho nên là người ta gọi là mật ngữ, tức là những lời bí mật của chư Phật. Thực ra thì đức Phật thuyết pháp, Ngài đã nói rồi, Ngài không có bí mật một cái gì cả, không có một điều gì bí mật, chẳng qua là chúng ta không hiểu được ngôn ngữ ấy thì chúng ta gọi là mật ngữ thôi, hoặc là chú thôi, chứ còn những người học tiếng Phạn, học tiếng Pali, giống như là bây giờ chúng ta không biết tiếng Anh, chúng ta nghe người ta đọc bằng tiếng Anh thì chúng ta bảo đấy là thần chú. Trong Phật pháp, Đức Phật nói là ta thuyết pháp với bàn tay mở ra – tức là đức Phật không giữ một bí mật nào cả. Bây giờ là chúng ta định nghĩa thế thôi, chứ Phật pháp không có gì bí mật, pháp của Phât là đến để mà thấy. Người ta có hiểu người ta mới mới tu được, người ta biết người ta mới tu được, chứ bí mật thì làm sao mà tu được, làm sao mà học được- không có bí mật. Cho nên, không có chữ thần chú, nhưng mà vì dùng lâu nó quen rồi cho nên tất cả những câu đó đều gọi là thần chú cả. Những câu ấy là câu để nguyên. Tôi ví dụ như là chú Dược sư chẳng hạn, gọi là Dược sư quán đỉnh chân ngôn- Nam mô bạc già phạt đế bệ sái xã lu ô, đấy là chúng ta đọc bằng tiếng âm tiếng Việt thôi, chứ còn nếu mà đọc tiếng Phạn thì không phải như vậy. Hoặc là thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni, đấy là chúng ta đọc bằng bằng tiếng Việt, nhưng mà đấy gọi là phiên âm từ tiếng Phạn, nó đọc nguyên tiếng Phạn. Và người biết tiếng Phạn người ta đọc là người ta biết ngay nội dung là nói cái gì, chứ không có cái gì bí mật, vì chúng ta không hiểu cho nên là chúng ta gọi là bí mật thôi. Còn ví dụ như là trong cái câu Nam mô bạc già phạt đế thì chữ Nam mô bạc già, nam mô là kính lễ, chữ bạc già phạt là Thế tôn, Đức Thế tôn. Dịch ra thì đó là- kính lễ Đức Thế tôn Dược sư Lưu ly Quang như lai. Không có cái gì là bí mật ở trong đó, nhưng đọc Nam mô bạc già phạt đế như thế thì chúng ta thấy nó linh lắm phải không? Linh thiêng là do chúng ta thôi. Cho nên ở đây nói thần chú có uy thần rồi có công đức không thể nghĩ bàn. Thực ra đây là phương pháp tu, chứ không phải là nói là nó uy lực, vì nếu mà chúng ta đọc nguyên bằng âm tiếng Phạn như vậy thì nó rất khó, mà để mà học thuộc được thì nó mất rất nhiều công, mà khi mà chúng ta đọc mà chúng ta không chú tâm. Gọi là chú để cho chúng ta chú tâm, nếu không chúng ta không chú tâm là chúng ta quên sẽ lẫn lộn ngay. Nhất là nếu mà vị nào mà đọc Đại bi thập chú hoặc là đọc Lăng nghiêm chẳng hạn, nếu mà không chú tâm là lộn đằng trước, lộn đằng sau. Cho nên đòi hỏi chú tâm và chú tâm ấy chính là nó làm cái phương tiện để giúp cho chúng ta giữ được định tâm, để trì Chú, để chúng ta chú tâm vào một điểm. Đấy gọi là tr-, trì là giữ tâm. Cho nên trong Kinh có nói chú tâm là chế tâm nhất xứ vô sự bất biện, chế tâm vào một chỗ thì không có việc gì mà không làm được, cho nên nói công đức uy thần. Cái này chính là thuộc phương tiện của định, tức là trì chú chính là giúp cho chúng ta định tâm.
Niệm Phật cũng vậy, pháp Niệm Phật thì có từ thời đức Phật, là nó nằm trong cái pháp lục niệm. Cái pháp lục niêm đây là pháp phương tiện để giúp cho hành giả tu tập, là khởi tâm hướng về chính Pháp. Trong pháp lục niệm thì chúng ta biết rồi, Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng cái đó chính là niệm Tam bảo. Niệm giới, niệm thí, thí là nghĩ đến bố thí đấy, là niệm thiên, có chỗ thì thay cái chữ thiên bằng niệm vô thường. Cái đó gọi là pháp lục niệm. Nhưng mà niệm ở đây là ước niệm, chứ không phải là niệm bằng cái cách mà chúng ta bây giờ chúng ta gọi là Nam mô A Di Đà Phật, cái đó là xưng danh chứ không phải là niệm. Niệm trong Kinh đã nói đây là ức niệm. Thì Niệm Phật trong sách, trong Kinh định nghĩa Niệm Phật là tưởng nhớ đến ân đức của Phật. Niệm Phật là tưởng nhớ đến ân đức của Phật, gọi là- Lễ Phật giả, kính Phật tri đức, Niệm Phật giả Niệm Phật tri ân. Tức là Niệm Phật là niệm ân đức của Phật. Cho nên trong cái pháp truyền thống, Niệm Phật là niệm mười ân đức của Phật, tức là mười danh hiệu của đức Phật đấy, như lai ứng cúng này, chính biến tri này, minh hạnh túc này, thiện thệ này, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, Phật thế tôn. Tức là suy nghĩ về mười đức hiệu ấy, cái đó gọi là niệm nhớ, chứ không phải niệm như lai ứng cúng chính biến tri và đọc như thế là niệm Phật là không phải. Pháp Niệm Phật này là gì – là nghĩ tưởng, suy nghĩ trong tâm, tưởng nghĩ ở trong tâm về mười công đức, hay là mười đức hiệu của Phật.
Ví dụ như lai thì phải hiểu như lai là thế nào, như là chân như, lai là tới cõi này, tức là đức Phật từ thể tính chân như mà đến thế gian. Ở đây như là chân lý, tức là từ chân lý mà tới, như lai là hiểu bậc từ chân lý đến. Ứng cúng là do ngày tu tập thành tựu được đầy đủ công đức, xứng đáng làm thầy của cõi trời, cõi người, cho nên xứng đáng để trời người cúng dàng, gọi ứng cúng. Ứng, tức là dịch từ chữ A la hán, thế còn người ta nếu mà đọc đúng nghĩa- như lai là bậc a la hán. Nam truyền người ta đọc như vậy, chúng ta Bắc truyền là như lai ứng cúng, tức là như lai nó là bậc ứng cúng. Niệm Phật chính là suy tưởng, nghĩ tưởng và hồi tưởng, ước niệm về mười đức hiệu này, cái đó gọi là Niệm Phật. Niệm Phật là tưởng nhớ đến Phật, hoặc là chúng ta niệm pháp, tưởng nhớ đến giáo Pháp của đức Phật. Khi mà chúng ta hồi tưởng những các cái lời đức Phật dạy, cái đó là niệm Pháp đấy. Niệm Tăng là niềm ân đức của Tăng. Chư tăng là những người có giới đức thanh tịnh hòa hợp, là những người thay đức Thế tôn để giáo hóa chúng sinh …, cái đó là niệm ân Đức Tăng. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là như vậy, thì ở đây Niệm Phật là để tưởng nhớ, ước niệm đến công đức ở chư Phật, sau này pháp môn Tịnh độ thì mới thay cái chữ Niệm Phật, thành cái chữ là xưng niệm danh hiệu Phật. Cái định nghĩa đây là Niệm Phật là niệm danh hiệu Phật, ví dụ chúng ta niệm Nam mô Bản sư Thích ca mâu ni Phật, như thế gọi là Niệm Phật, nhưng mà cái đó là niệm danh hiệu, niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì cái đó là niệm danh hiệu. Tức là chúng ta đang đọc danh hiệu của Phật, cái đó không gọi là niệm đâu, cái đó là xưng danh. Thế ở đây Niệm Phật là tưởng nhớ đến ân đức ở Phật, cho nên ở đây ba cái nghĩa của tụng Kinh, tức là chúng ta gì ghi nhớ, và đọc lại những lời đức Phật chỉ dạy, cái đó gọi tụng Kinh. Trì Chú ở đây chữ chú là Đà la ni ở trên đã nói đó là tổng trì, trì tức là nắm giữ giáo pháp của đức Phật một cách tổng quát, gọi là Trì Chú. Niệm Phật là nhớ tưởng đến ơn đức của Phật, đấy chính là ba cái điều mà chúng ta gọi là tụng Kinh Trì Chú và Niệm Phật.
Chúng ta sang cái phần II, là lý do tụng Kinh Trì Chú Niệm Phật.
Kinh văn:
II. LÝ DO PHẢI TỤNG KINH – TRÌ CHÚ – NIỆM PHẬT
1. Vì sao phải tụng kinh?
Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẫy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, đức Phật vì đã thương xót chúng sinh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.
2. Vì sao phải trì chú?
Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú “Bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ đà-la-ni” có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sinh về Tịnh độ. Thần chú “Tiêu tai kiết tường” có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thần chú “Lăng Nghiêm” thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nề v.v… Thần chú “Chuẩn Ðề” trừ tà, diệt quỷ. Thần chú “Thất Phật diệt tội” có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v… Vì thế nên chúng ta phải trì chú.
3. Vì sao phải niệm Phật?
Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch.
Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.
Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng?
Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là “tâm” lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và “ý” như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây nói về lý do tụng Kinh Trì Chú Niệm Phật, thì các vị đã nghe ở trong giáo trình đã nói rồi, đây chúng tôi xin phân tích mấy cái khía cạnh khác, những điều mà trong sách đã nói. Ở đây đã nói là tụng Kinh là phải học thuộc lòng, chúng ta biết rằng là thời đức Phật, tôi đã nói lại là khi đức Phật giảng Kinh thuyết pháp là không có ai ghi chép, không có máy thu âm, và tất cả mọi sự truyền bá Kinh điển lúc bấy giờ đều phụ thuộc vào việc đọc tụng của chư Tăng và Phật tử. Và cái việc mà đọc tụng như thế thì không phải là thuộc một quyển Kinh đâu, hoặc là một bài pháp đâu, mà có những các vị là thuộc cả ngàn bài, và những người đặc biệt như ví dụ như ngài A Nan chẳng hạn, hầu như toàn bộ những lời đức Phật nói về giáo pháp là ngài ghi nhớ và thuộc lòng hết. Chúng ta biết rằng hiện nay trên thế giới vẫn còn tổ chức các cuộc thi tụng Tam tạng. Ở Miến Điện chẳng hạn chúng ta thấy rằng là có những vị hiện nay người ta vẫn có thể đọc thuộc lòng toàn bộ tam tạng Kinh điển của Nam truyền. Và đấy chính là cái phương pháp trì tụng để làm cái gì, tụng là để ghi nhớ lời Phật, đây là cái điều đầu tiên, mà có ghi nhớ thì chúng ta mới có thể tu tập được, cho nên trong tam tuệ – văn, tư và tu. tụng chính là để chúng ta văn tuệ, là nghe lại lời Phật, ôn lại lời Phật. Chúng ta cứ phải tụng đi tụng lại, tại sao lại phải tụng đi tụng lại, chúng ta giống như con đường mà chúng ta đi, nếu chúng ta chỉ đi một lần thì không thể thành đường được, nhưng chúng ta cứ đi lại nhiều lần, thì nó sẽ thành cái đường mòn, cỏ nó sẽ không mọc và những thứ gai góc chúng ta sẽ dọn dần đi, khi mà chúng ta cứ đi lâu ngày thì nó sẽ thành con đường lớn, và không những là chúng ta đi rồi nhiều người cũng tiếp tục đi như vậy, thì nhiều khi ban đầu nó chỉ là con đường mòn con đường mới mở nhưng mà lâu ngày nó sẽ thành đại lộ, và những cái con đường lớn bây giờ thì cũng bắt đầu từ những cái con đường nhỏ ấy, đấy nói về xã hội là như vậy. Thế thì tâm giải thoát giác ngộ của chúng ta cũng bắt đầu từ cái chỗ văn tuệ này, mà thành ra là tư tuệ, có nghe thì mới suy nghĩ được, mà có suy nghĩ thì mới thực hành được, cho nên là- văn nhi tư, tư như tu. Đức Phật nói trong Kinh là – nghe mà không suy nghĩ giống như cày ruộng mà không gieo hạt, suy nghĩ mà không tu thì giống như gieo hạt mà không chăm bón. Câu chuyện nó rất rõ, chúng ta nghe lời Phật mà không suy nghĩ thì cũng giống như cầy ruộng xong rồi để đấy không gieo hạt. Chúng ta suy nghĩ là chúng ta gieo hạt, nhưng mà gieo hạt rồi cũng để đấy mà không tu, thì không khác gì là gieo hạt rồi, trồng cây rồi, mà gì không có tưới món không có chăm sóc thì không có một cái kết quả nào có thể thu hoạch được cả. Vì thế con đường học Phật, bắt đầu từ văn, văn tức là nghe. Nghe trực tiếp đức Phật giảng, mà bây giờ Phật không còn nữa thì nghe trực tiếp chư Tăng giảng, hoặc chúng ta tự mình đọc lại lời đức Phật dạy. Tự mình đọc thì bây giờ là gọi là đọc Kinh, chúng ta một là chúng ta đọc thuộc lòng thì là tốt quá rồi, nhưng mà muốn đọc thuộc lòng một bản Kinh là chúng ta phải công phu học rất nhiều, học da học diết, học ngày học đêm. Chúng ta tu Tịnh độ, mỗi bản Kinh Phật thuyết A di đà thôi mà đọc không cẩn thận vẫn còn quên, huống hồ chi là tám vạn bốn nghìn pháp môn làm thế nào để đọc. Tại sao chúng ta đọc mà không thuộc, có một cái lý do đó chính là vì tâm chúng ta phiền não quá nhiều, cho nên không ghi nhớ được. Nếu người nào có tâm thanh tịnh, tâm định, thì chúng ta có thể ghi nhớ rất nhanh. Điều này không phụ thuộc vào thông minh hay không thông minh, không phải học thuộc lòng phụ thuộc vào thông minh, mà trong Phật pháp nói là tâm có trong sạch hay không tâm. Tâm chúng ta trong sạch là tự có khả năng ghi nhớ, cái đó là chính là chúng ta gì học để ghi nhớ. Mục đích thứ hai của tụng Kinh, thời đức Phật để truyền bá Phật Pháp. Tụng Kinh chính là một phương pháp truyền bá Phật pháp, chúng ta ngày nay thì có các phương tiện như Kinh in bằng sách bằng giấy, rồi ghi bằng băng đĩa, cho nên vì thế chúng ta thành ra lười và không chịu ghi nhớ, chứ nếu mà không có sách mà bắt buộc phải ghi nhớ, thì người ta sẽ phải phải học để ghi nhớ. Khi mà học được, ghi nhớ rồi, chúng ta lại đem cái ghi nhớ của mình nói lại cho người khác, thì chính là chúng ta đang thực hiện mục đích thứ hai là truyền bá Phật pháp. Cho nên chư tổ nói là chúng ta tụng Kinh có mấy mục đích thế này. Thời đức Phật là để ghi nhớ, để truyền bá nhưng ngày nay cũng có mục đích như vậy. Khi mà chúng ta tụng Kinh cứ cho rằng, bây giờ chúng ta không thuộc lòng chúng ta dở sách ra đọc thì ngay khi chúng ta tụng Kinh, chúng ta đã thành tựu được ba thứ công đức. Ở đây trước hết là nói hai thứ công đức hiển nhiên là người nào cũng sẽ đạt được. Một là thân nghiệp, khi mà chúng ta tụng Kinh là đối trước Phật thì chúng ta đọc tụng là thân nghiệp của chúng ta sẽ thanh tịnh, và thân lúc bấy giờ nó sẽ không tạo ba ba ác nghiệp, tức là không sát sinh, khi lúc tụng Kinh làm sao mà sát sinh được phải không. Thân sẽ không trộm cắp, thân không phạm tội tà hạnh, tức là lúc bấy giờ thân nghiệp, thân của chúng ta đoạn được ba nghiệp, sát sinh, trộm cắp và tà dâm. Miệng chúng ta đọc tụng lời Phật, cho nên là miệng chúng ta không phạm vào bốn lỗi, không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác, và không nói theo dệt. Nếu mà lúc bấy giờ chúng ta tập trung tâm ý vào nữa, thì lúc bấy giờ ý sẽ không khởi tham, không khởi sân, không khởi si. Vậy chúng ta tụng Kinh trong khoảng độ nửa tiếng, hoặc một một tiếng, hoặc càng nhiều hơn nữa thì ngay lúc bấy giờ ba nghiệp của chúng ta đạt đến tam nghiệp túc kính. Thân nghiệp túc kính, tức là chúng ta mặc áo tràng ngồi ngay ngắn, trước bàn thờ Phật, trước tôn tượng của đức Phật, hoặc ngồi trang nghiêm ở cái chỗ mà chúng ta có thể xem Kinh được. Thì lúc bấy giờ thân nghiệp túc kính. Thứ hai nữa là miệng đọc Kinh, hoặc chúng ta đọc thầm, miệng không có phát ra tiếng, thì miệng vẫn đạt được cái khẩu nghiệp thanh tịnh. Và lúc bấy giờ tâm không vọng tưởng, hoặc là vọng tưởng nó ít thôi, nó khởi lên ít khi mà chúng ta tụng thành tiếng mà chúng ta tụng theo nhịp, thì lúc bấy giờ để chúng ta bắt được câu Kinh, mắt thì phải dán vào chữ mà đọc, thì lúc bấy giờ tâm nó ít vọng tưởng khởi lên hơn cách mà chúng ta đọc thầm. Đọc thầm thì các vọng tưởng nó dễ cắt ngang lắm, cho nên là chư tổ có nói – tụng Kinh phải lớn tiếng, càng lớn tiếng bao nhiêu thì công đức càng thành tựu bấy nhiêu, tức là làm cho âm vang của tiếng Kinh nó vang vọng, nó truyền bá vào trong không gian, cái đó chính là chúng ta đang đọc tụng và thành tựu được cái công đức thứ nhất, là tuyên dương lại lời của đức Phật. Vì tuyên dương lại lời của Phật là để nghe phải hiểu. Cho nên là chúng ta phải mồm phải đọc, nhưng mà tai thì phải nghe, tâm thì phải suy nghĩ, thì lúc bấy giờ mới nó mới thành tựu được công đức là gì văn nhi tư như tu. Nghe rồi suy nghĩ, suy nghĩ rồi để tu. Còn nếu chúng ta không kịp suy nghĩ thì suy nghĩ sau, tư duy sau. Nhưng trước hết là chúng ta nghe. Thứ hai nữa là thành tựu được cái cái năng lực gieo được cái lời Kinh, lời chú, lời danh hiệu của đức Phật vào chủng tử thức điền của chúng ta. Tức là cái hạt giống thiện lành bằng cái lời Kinh của Phật pháp bảo vô thượng, nó gieo vào trong cái chủng tử thức điền. Và khi nó có đủ cái duyên của nó, thì cái hạt bồ đề ấy, cái tâm chính giác ấy nó sẽ nảy nở. Đấy chính là cái cái ý nghĩa mục đích và lý do thứ hai. Còn một cái mục đích cao cả hơn là hoàng truyền Phật pháp, thì chư tổ có nói và trong Kinh thường nói- Tụng Kinh với cái tâm chí thành thanh tịnh, thì chúng ta biết rằng sẽ có một cái lực lượng mà chúng ta mắt chúng ta không nhìn thấy được, nhưng mà trong Kinh thường nói là bát bộ hộ pháp long thiên, các vị sẽ đến nghe Kinh và hộ trì cho chúng ta. Bởi vì trời, rồng, quỷ thần, càn thát bà, a tu la đấy, ca lâu la, khẩn la la, ma hồ la già, nhân và phi nhân ấy, đấy gọi là bát bộ. Những vị ấy thường đi theo Phật để nghe pháp, khi đức Phật còn tại thế và họ có phát nguyện trước đức Phật là -chúng con sẽ hộ trì Kinh này, ở đâu có người đọc tụng Kinh này là chúng con sẽ đến để để hộ trì, làm cho Kinh được lưu truyền. Không những là Kinh sách được lưu truyền còn hộ thì cho cả người trì Kinh. Chúng ta đọc tụng Kinh điển Đại thừa thì thấy cái chuyện này. Nhưng mà có một điều khác nữa mà ít chỗ nói, thì chúng tôi có nói là cái này là trong Kinh có nói – khi chúng ta tụng Kinh với cái tâm thanh tịnh, nếu mà chúng ta đạt được tam túc kính thanh tịnh, thì chúng ta đang tuyên lại lời của đức Phật, mặc dù chúng ta tụng một mình không có người nào ở đó nghe, nhưng mà có một cái lực lượng vô hình, tức là hộ pháp chư thiên, chúng ta nói là kể cả những cái người mà thần thức người họ mới qua đời họ vẫn có linh cảm để nghe được, và lúc bấy giờ là chúng ta đang thực hiện hoằng truyền Phật pháp chúng ta cứ nghĩ rằng là Phật tử chúng ta không có khả năng giảng Kinh thuyết pháp, nhưng mà khi mà chúng ta thành kính, tụng Kinh của Đức Phật ấy, là chúng ta đang thuyết pháp đấy, bởi vì chúng ta thuyết lại nguyên lời của đức Phật phải thuyết với cái tâm thanh tịnh thì chúng ta sẽ cảm ứng được với hộ pháp chư thiên mà những các cái gọi chúng ta gọi là những người mà chúng ta không nhìn thấy, đó là những chúng sinh ở trong cái địa ngục, những chúng sinh ở a tu la, những chúng sinh thuộc về ngã quỷ, những người mà mới mất mà thần thức chưa chuyển sinh cao hơn nữa và các vị hộ pháp long thiên sẽ tới nghe. Cho nên tôi mới nói là tụng Kinh chính là thực hiện cái cái mục đích cao cả là hoàng chuyển dương pháp. Cho nên ở đây cả ba vấn đề tụng Kinh, Trì Chú và Niệm Phật, đây là ba phương tiện phải nói rõ đó là phương tiện, để chúng ta tu học tụng Kinh là phương tiện để tu học. Trì Chú cũng là phương tiện thể tu, mà Niệm Phật cũng là phương tiện để tu. Trước hết là để chúng ta gì duy trì Phật pháp, làm cho tâm chúng ta trở nên thanh tịnh, và có một ý nghĩa cao cả hơn nữa là chúng ta đang tuyên dương lại giáo pháp của đức Phật. Đây chính là cái mục đích để chúng ta tụng Kinh, để chúng ta Trì Chú, Niệm Phật. Đây nói về chữ Niệm Phật một chút, Kinh thì chúng ta không học thuộc, cho nên là không phải lúc nào chúng ta cũng tụng được, nếu mà các vị mà thuộc được Kinh ý thì chúng ta sẽ là tụng Kinh bất kể chỗ nào được, ví dụ như là bản Kinh Phật thuyết A di đà mà chúng ta học thuộc được chẳng hạn, thì hôm nay lý ra là là giờ này chúng ta đang tụng Kinh, hoặc là buổi chiều hoặc năm giờ chúng ta có cái khóa tụng Kinh chẳng hạn, nhưng mà hôm nay chúng ta có việc mà chúng ta phải đi. Chúng ta không tụng Kinh được, nhưng nếu công việc của chúng ta đi ở trên đường mà nó không vướng, không trở ngại gì thì chúng ta vẫn có thể tụng Kinh được. Chúng ta ngồi trên ô tô có tụng Kinh được không- tụng được phải không? Nếu chúng ta thuộc lòng mà chúng ta không cần phải dở sách ra, và chúng ta vẫn Tụng ở trong tâm mình được mà không ảnh hưởng đến người bên cạnh vẫn tụng Kinh được. Chính là nếu mà chúng ta thuộc lòng ấy thì bất kể chỗ nào, chúng ta cũng vẫn dụng tụng được Kinh, còn vì là chúng ta không thuộc ấy, chữ tụng là thuộc lòng, vì chúng ta không thuộc chúng ta phải có sách, mà chúng ta đi đến đâu mà chúng ta cũng phải mang một quyển Kinh đi theo thì rất trở ngại. Đấy cái mà tiện lợi mà gọi là tụng đấy, chúng ta sẽ thấy được tác dụng của nó. Vì đối với Kinh mà chúng ta không có khả năng thuộc, cho nên là cái phương pháp ngắn nhất, đơn giản nhất là chúng ta Niệm Phật, tức là Niệm danh hiệu Phật Nam Mô A Di Đà Phật, đây là cái phương pháp ngắn gọn nhất mà chư tổ có chỉ dẫn cho chúng ta, Phật chỉ dẫn cho chúng ta. Bởi vì Kinh chúng ta không thể học thuộc những cái bản Kinh dài, bây giờ Kinh Pháp Hoa là chúng ta không thuộc được, người nào có giỏi lắm thì tụng được một cái phẩm Phổ môn thuộc lòng là khá lắm. Còn không là hầu như không thuộc, thế thì Kinh chúng ta không thuộc thì không thể đi đâu cũng mang đi theo, và ngồi đâu cũng tụng được, thì có một phương pháp là cái phương tiện là nó giản dị nhất, mà trong Kinh chỉ cho chúng ta là phương pháp Niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi, chúng ta niệm cũng Niệm Phật được. Ở đây cái mục đích ở tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật, mục đích thứ tư ở đây nói đến là làm cho chúng ta giữ được tâm thanh tịnh. Tâm chúng ta là tâm viên ý mã, vọng tưởng nó phát khởi thường xuyên, và không có gì cột được bởi vì nó vô hình, cho nên phải dùng Kinh Phật để cột tâm chúng vào. Khi mà chúng ta tụng Kinh là chúng ta cột tâm của chúng ta vào bản Kinh chúng ta đang đọc phải không. Khi mà chúng ta Trì Chú thì chúng ta cũng là cột tâm của chúng ta vào cái bản chú mà chúng ta đang đọc. Thế thì Kinh với Chú thì nó tương đối khó, và không phải lúc nào cũng cũng đọc tụng được. Cho nên có một cái phương pháp dễ nhất chính là dùng danh hiệu Phật để niệm. Thế thì thay bằng vọng niệm mà nó khởi trong tâm ấy, Niệm Phật cũng chính là niệm đấy. Cũng là một thứ phát khởi niệm, nhưng mà nó thuộc niệm thanh tịnh. Phật là gì, Phật là giác ngộ, Niệm Phật là niệm giác. Cho nên là cái này nó rất hiệu quả khi tâm nó bất an, chúng ta ngồi chúng ta Niệm Phật một lúc thì tâm sẽ tự sẽ tự an, đấy gọi là nước đục mà muốn cho nó trong lại thì phải dùng phèn, hoặc là chúng ta để nó lắng. Hoặc giả là chúng ta gặp những chuyện gì có thể phát khởi tâm sân, tâm si chẳng hạn, tâm tham chẳng hạn, nếu lúc bấy giờ chúng ta khởi tâm- chúng ta Niệm Phật một vài câu Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, thì lập tức là tâm ấy sẽ lắng xuống, thì đấy chính là cái lý do mà cũng là công dụng, công đức của việc tụng Kinh, Trì Chú và Niệm Phật.
Chúng ta sang phần thứ ba là nên đọc tụng những Kinh chú nào. Xin mời các vị đọc bài
Kinh văn:
III. PHẢI THƯỜNG TỤNG NHỮNG BỘ KINH NÀO, TRÌ CHÚ GÌ VÀ NIỆM DANH HIỆU PHẬT NÀO?
1. Các kinh thường tụng.
Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sinh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng.
Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di Ðà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v…
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
a) Cầu siêu thì tụng kinh Di Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v…;
b) Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v…;
c) Cầu tiêu tai và giải bịnh thì tụng kinh Kim Cang, Lăng Nghiêm v.v…;
d) Cầu sám hối thì tụng Hồng Danh.
Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết quả cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
2. Các chú thường trì.
Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa tụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ bộ chú v.v… Còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bởi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.
3. Các hiệu Phật thường niệm.
Ðức Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sinh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một đức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.
Nhưng đứng về phương diện trình độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta-bà, nhằm quốc độ của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh độ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của đức Phật Thích-Ca: “Ở cõi thế giới Ta-bà này, đến thời kỳ mạt pháp, cách Phật lâu xa, chỉ có pháp “Trì danh niệm Phật”, cầu vãng sinh về Tây phương cực lạc là quốc độ của đức Phật A Di Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết”.
Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu đức Phật Di Lặc, để cầu sinh về cõi trời Ðâu-Suất; hoặc niệm danh hiệu đức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, là niệm đức Phật hiện tại, mà cũng là đức Phật giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm đức Phật A Di Ðà, là niệm đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là đức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực lạc.
c) Niệm đức Phật Di Lặc, là niệm đức Phật vị lai.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây nói là Kinh chú thường tụng, chúng ta đối với Phật giáo Bắc truyền ấy, thì cũng có một bộ gọi là Kinh chú thường tụng, còn Phật tử mà học theo Phật giáo Nam truyền ấy, thì Nam truyền Phật giáo người ta cũng có một bộ Kinh chú thường tụng. Đấy là nói thông dụng, chứ nói tu theo pháp môn ấy, thì pháp môn nào, tông phái nào, thì người ta có cái Kinh chú thường tụng của tông phái ấy. Tôi nói ví dụ như là Thiền tông, thì người ta sẽ không tụng Kinh A Di Đà, mà người ta phải tụng Kinh Kim Cương, người ta phải Tụng Bát Nhã, hoặc là người ta phải tụng Kinh Lăng Già – những Kinh sách về Thiền. Người tu Pháp Hoa thì người ta lấy việc chuyên trì Pháp Hoa làm là mục đích, cho nên là nó có bản Tích nhị môn ấy, là Bản Môn Pháp Hoa, Tích Môn Pháp Hóa thì tùy theo cách tu tập mà người ta tụng. Thế rồi những người mà chuyên về Mật Tông chẳng hạn, người ta phải hành trì theo cái phương pháp của Mật giáo, tức là Tam Mật Tương Ứng, khi mà người ta tụng chú hoặc là vào trong đàn tràng phải có Mạn Đà La. Thế rồi là Thân Mật Tương Ứng, Khẩu Mật Tương Ưng, Ý Mật tương Ứng, thân mật tương ứng là khi vừa tụng Kinh là người ta phải vừa kết ấn, thế để tương ứng với cái ấn chú của Chư Phật, đấy là thân mật tương ứng. Khẩu mật tương ứng là lúc bấy giờ miệng người ta phải đọc những các lời chú, nhưng đọc các lời chú phải đọc tiếng Phạn ta phải đọc bằng tiếng Paliy chứ không có đọc bằng tiếng Việt, nếu chúng ta mà Trì Chú, thực ra là chúng ta Trì Chú mà chúng ta gọi là phiên âm bằng tiếng Việt, cái năng lực và cái hiệu quả mà nhiều khi nó sai lệch. Bởi vì chúng ta đọc theo cái lối phiên âm, xin thưa với các quý vị ở đây nói một chút là trong các lời thần chú, thì phần lớn là có danh hiệu của Phật Bồ Tát còn một cái phần lớn nữa là danh hiệu của các Quỷ Thần, là thuộc Bát Bộ Long Thiên. Và kêu gọi họ tới để hộ pháp, thế nhưng mà ví dụ như là tên của họ là thế này, mà chúng ta lại đọc phiên âm là thế kia, thì làm sao mà họ tới được. Cho nên tại sao có người cho rằng là chúng ta mà cứ Trì Chú bằng bằng âm tiếng Việt, thì nó không có khả năng gọi là hiệu nghiệm, nhưng mà thực ra ở đây là hiệu nghiệm hay không là do tâm chúng ta. Pháp mà chúng ta mà mà đọc không chính xác ấy, tức là câu chữ ngôn từ nó không chuẩn xác, thì không đảm bảo chuyện là đọc tụng đúng giáo Pháp. Cho nên ở đây nói là Kinh thường tụng thì phải tùy theo cái pháp môn chúng ta tu học để tụng Kinh gì, thực ra thì đối với Phật tử tại gia, những cái gì là những Kinh mà chúng ta nên tụng. Ở đây chúng tôi xin chia sẻ ngoài cái cách nói ở trong sách là cách nói thông thường. Phật tử tại gia chúng ta có một cái bản Kinh ít nhất là chúng ta tụng là Kinh Người Áo Trắng, bởi vì Phật tử tại gia được dịch từ chữ bạch y, cho nên dịch chữ bạch y là áo trắng, tại sao người tại gia gọi là bạch y. Bởi vì thời Đức Phật và kể cả thời sau này nữa, trong Kinh có định nghĩa chữa bạch y là người tại gia thì cho rằng cái màu trắng là cái màu tinh khiết, và cái màu thể hiện cái sự sang trọng, cho nên người tại gia ưa thích mặc đồ trắng. Để giữ gìn mặc một cái bộ đồ màu trắng được ấy, là mặc phải hết sức cẩn thận, giữ gìn cẩn thận không cái nó bẩn ngay. Cho nên là nó vừa thể hiện cái sự trong sạch, nhưng mà nó cũng thể hiện cái sự cao quý, thời Đức Phật thì những cái nhà quyền quý giàu có mới có thể mặc đồ trắng được, lấy đó là biểu tượng, cho nên gọi đó là bạch y, tức là cư sĩ áo trắng. Kinh Người Áo Trắng chính là Kinh nói về tại gia cư sĩ, nội dung của nó là nói về năm giới của người tại gia. Kinh này là tụng và đọc vào hai ngày, đó là ngày mười lăm hàng tháng, bây giờ chúng ta gọi là ngày mười bốn, ngày ba mươi. Cái bản này là bản mà bất kể một Phật tử tại gia nào, tu theo pháp môn nào, chúng tôi không nói, đây là cái Kinh căn bản nhất của người Phật tử tại gia. Đó cái bản Kinh thứ nhất. Bản Kinh thứ hai là cái Kinh căn bản nền tảng đạo đức của người Phật tử ấy, thì đó chính là Kinh Thiện sinh. Cái bản Kinh này là nói đến bổn phận trách nhiệm của sáu cái mối quan hệ Cha – con, vợ – chồng, anh – em, thế rồi thầy – trò, đối với các vị sa môn và bằng hữu. Đây chính là Đức Phật chỉ dạy về cái cái nền tảng đạo đức của người Phật tử tại gia. Một cái bản Kinh nữa là đối với người Phật tử tại gia, tôi khuyên là nên đọc đó là Kinh Tam thế nhân quả, là những bộ Kinh mà chúng ta phải đọc, Tam thế nhân quả là nói về nhân quả ba đời . Giáo lý căn bản của của Phật pháp chính là nói về nhân duyên, và nói về lý nhận quả, chúng ta có hiểu được nhân quả và tin được nhân quả thì mới biết là bỏ ác làm lành, tu nhân tích thiện để chuyển hóa được thân tâm, cho nên là căn bản của Phật Pháp chính là nói đến cái đạo lý nhân quả này, vì thế cái Kinh Tam thế nhân quả là Kinh mà Phật tử chúng ta phải đọc. Đây là ba bộ Kinh nó rất căn bản và rất đơn giản, ngoài ra còn giáo lý và cao hơn nữa mà để chúng ta có thể đọc tụng được. Thì đối với Phật giáo Bắc truyền thì hai bộ Kinh cũng mang tính nhân quả, đó chính là Kinh Địa tạng và Kinh Thủy sám, hoặc là Lương hoàng thì đây là Thủy sám và lương hoàng chúng ta gọi là Kinh thôi chứ đó là văn sám do Chư Tổ soạn ra, nhưng mà nó có ý nghĩa tổng kết về vấn đề nhân quả ở trong Phật pháp, chỉ rõ chúng ta là do đâu mà phát sinh tội lỗi. Kinh Thủy sám là cái thủy sám pháp văn hoặc là Lương hòang cũng thế chỉ cho chúng ta ba nghiệp của chúng ta thân, khẩu, ý sinh ra tội lỗi chỗ nào, và làm thế nào để chúng ta ngăn ngừa được các tội lội đó, làm thế nào để sám hối, tiêu trừ được tội lỗi, thì đấy chính là những bộ mang ý nghĩa giáo lý, nhưng mà nó cũng là đồng thời là phương pháp để cho chúng ta tu học. Ngoài ra thì các Kinh như Dược Sư, Phổ Môn, Di Đà được dùng cho các việc mà chúng ta gọi là cầu an cầu siêu. Thực ra thì nói đến chuyện cầu an cầu siêu hôm trước tôi đã nói rồi, trong Phật pháp vốn không có cái việc này, chúng ta nên nhớ là là một điểm tôi nhắc lại là chúng ta có tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật thì đừng có nghĩ rằng là chúng ta tụng Kinh cho Phật nghe nhá, Phật không có nghe chúng ta tụng Kinh đâu. Bởi Phật nói ra Kinh, Phật việc gì mà phải Phật phải nghe chúng ta tụng lại, mà nhiều khi tụng câu nọ đánh xọ câu kia, Phật không có nghe chúng ta tụng Kinh. Chúng ta tụng là để chúng ta nghe, tụng kinh cũng vậy, trì chú cũng vậy, niệm Phật cũng vậy, cho nên pháp môn Niệm Phật là – tâm nghĩ, miệng nói, tai nghe. Tụng Kinh cũng vậy, Trì Chú cũng thế, tâm chúng ta phải suy nghĩ, miệng chúng ta phải phát ra âm thanh, tai chúng ta lại phải nghe những cái lời mà chúng ta vừa mới đọc, cho nên là bụng nghĩ rồi phát ra miệng miệng lại rót vào tai, tai lại trở về với trọng tâm, tức là tạo thành một cái vòng khép kín như thế thì đó mới chính là phương pháp tụng Kinh, niệm Phật, Trì Chú. Cho nên ở đây nói rằng khi chúng ta cầu siêu, thì chúng ta tụng Kinh Địa Tạng, Kinh Di Đà, Kinh Vu Lan, đây thì nói kỹ một chút, thực ra những ai tu Tịnh độ thì biết rồi- Phật tử tín đồ chư tăng chúng ta ai cũng tụng Kinh Di đà, nhưng mà tôi thì nói thật một điểm như thế này-trong Kinh Di Đà không có một chữ nào nói đến chuyện cầu siêu cả, cho nên nếu mà cứ dùng Kinh Di đà để mà cầu siêu. Kinh Di đà không phải là Kinh để dùng cho cầu siêu, nên nhớ là Kinh Di đà không phải bản Kinh đức Phật dạy để chúng ta tụng siêu độ cho người đã chết. Vì trong Kinh đó từ đầu đến cuối không có một chữ nào, không có một đoạn văn nào đức Phật dạy tụng Kinh đó để siêu độ cho người đã chết cả. Mà Kinh Phật thuyết A di đà là một bản Kinh căn bản của pháp môn Tịnh độ. Trong đó nói ba vấn đề, tín – nguyện và hành. Nói về cảnh giới của Tịnh độ, tức là y báo chính báo của đức Phật A di đà để cho người ta phát khởi được tín tâm, tức là phát khởi được niềm tin, rồi trong Kinh đó đức Phật Thích ca có khuyên ai nghe rồi thì nên phát nguyện sinh sang cõi kia, cho nên là đức Phật khuyên chúng ta là vãng sinh tịnh độ, cái đó gọi là khuyên chúng sinh phát nguyện. Cuối cùng trong Kinh đó là chỉ ra cái phương pháp hành trì là – nếu có người nào nghe danh hiệu đức Phật A di đà rồi trì tụng Kinh đó trong một ngày, hai ngày ba ngày cho đến bảy ngày, mà đạt được nhất tâm bất loạn thì đến lúc lâm chung sẽ được Phật, Bồ tát, thánh chúng hiện thân rước người đó, thấy Phật, Bồ tát hiện thân thì lập tức được vãng sinh. Cái đó chính là chỉ cho chúng ta phương pháp trì niệm danh hiệu đức Phật A di đà để vãng sinh. Kinh này thì không phải là Kinh cầu siêu, thế còn đúng là trong Phật pháp có hai bản Kinh liên quan đến cầu siêu thật, đó chính là Kinh Địa tạng. Sở dĩ trong Kinh Địa tạng có cái phẩm tồn vong lợi ích, các Phật tử chúng ta tụng Kinh này thì biết, thì trong đó có nói – khi dùng cái Kinh Địa tạng đó mà tụng, rồi làm những các việc phúc thiện, cúng dàng trai tăng, rồi phóng sinh tu phúc, hồi hướng công đức cho người đã mất, thì trong Kinh đã nói rồi, bảy phần công đức- người chết có một phần thôi, cái đó là hồi hướng công đức cũng không phải là cầu siêu, tức là hồi hướng công đức cho người đã mất, phải nhớ một cái điều như vậy. Thì nó chỉ có nói duy nhất trong một cái phẩm là tồn vong lợi ích thôi. Đấy chúng ta học Phật là chúng ta phải phải hiểu rõ, tụng Kinh là chúng ta phải biết rõ tôn chỉ mục đích của các Kinh. Bản Kinh thứ hai có liên quan một chút đến cầu siêu, chính là Kinh Vu lan. Kinh Vu lan thì một năm nó chỉ có tổ chức một lần vào rằm tháng bảy thôi, cũng là một cái bản Kinh hướng dẫn chúng ta làm thế nào để có thể siêu độ cho người đã mất, và hồi hướng công đức cho người còn sống, nhưng mà ngày nay vu lan là chuyển thành để tuyên dương chữ hiếu. Vu Lan xưa kia lại tổ chức trai hội cúng dàng vào ngày mà chư tăng kết thúc ba tháng an cư, ngày tự tứ, rồi đem cái công thức đó để hồi hướng. Ở đây thực ra là hồi hướng chứ không có dùng chữ từ siêu độ. Hồi hướng là phải hiểu thế này này, hồi là xoay lại, hướng là hướng tới tức là chúng ta đem công đức của chúng ta chia sẻ cho cái những người đó, nói đơn giản như bây giờ là thế này, này chúng ta có tiền chúng ta muốn gửi cho một cái người nào đó thì chúng ta có tiền đó mới gửi được, mà chúng ta phải biết rõ là địa chỉ thế nào thì chúng ta mới gửi, sở dĩ vì thế cho nên là chúng ta tu học thì tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc, cho nên là kết thúc một cái cái thời Kinh là chúng ta đọc cái câu là nguyện dĩ thử công đức đấy, phổ cập nhất thiết, ngã đằng giữ chúng sinh, giai cộng thành Phật đạo, chính là hồi hướng đấy. tức là nguyện đem các cái công đức mà chúng con đã tu được, trong ngày hôm nay bất kể là tụng Kinh, Niệm Phật, Trì Chú, hoặc là làm những việc phúc thiện gì xin là gì hồi hướng cho tất cả các pháp giới chúng sinh, mọi người đều được hưởng cái phúc duyên tốt đẹp này, mà nhờ có được cái phúc duyên tốt đẹp này, thì cngười mà đã có phúc rồi thì làm cho phúc họ tăng thêm, cái người đang chịu khổ thì sẽ được bớt khổ mà khi mà khổ hết rồi thì sẽ sẽ ra khỏi chỗ khổ, đấy chính là hồi hướng. Và chính hồi hướng như thế thành ra danh từ là cầu siêu. Cầu an thực ra cũng là phương pháp hồi hướng, khi mà chúng ta tụng Kinh cầu an, tức là cầu cho một người nào đó đang bị bệnh tật, cầu cho người đó đang bị hoạn nạn thì chúng ta là phải đem cái công đức mà mình đã làm được là chuyển cho, tức là hồi chuyển đấy, tức là chuyển cho những người đó, để cho họ tiếp nhận được công đức. Bởi vì sao họ bệnh, vì công thức của họ đang bị giảm sút, nó giống như là tại sao chúng ta đang đói, bởi vì dạo này chúng ta đang không có tiền, cho nên là đang đói, thì tự nhiên là có người là giúp cho chúng ta một món tiền, trợ giúp cho chúng ta có công việc, thì làm cho chúng ta xóa được đói, giảm được nghèo, thì chúng ta nói theo thế gian như thế là nó hết khổ về đói về nghèo. Thế thì hồi hướng công đức cũng giống như vậy, cho nên cầu an hay cầu siêu ấy, tôi đã nói là cũng chỉ là phương pháp hồi hướng mà thôi, cái nguyên lý của nó là hồi hướng, chứ không phải là cầu Phật rồi Phật gia hộ, rồi Phật phù hộ, nó không phải Phật phù hộ. Cái này là chúng ta có công đức hay không, cho nên tại sao lại là nhiều khi chúng ta bảo, có thầy gọi là làm lễ cho nó linh nghiệm lắm nhưng mà thực ra không phải là các thầy làm lễ linh nghiệm đâu, nó phụ thuộc vào công thức của các vị ấy. Ví dụ như là các bậc chân tu, các bậc trưởng lão, hòa thượng mà chúng ta đến xin các ngày xoa đầu, hồi hướng cho chúng ta một cái là nhiều khi là nó yên ngay, bởi vì đó là là do năng lực của các Ngài lớn. Cho nên ấy cái khả năng hồi hướng của các Ngài nó sẽ cao hơn, còn chúng ta là phàm phu nó gọi bạc địa, nó sát đất rồi, chúng ta cũng là cái người nghèo, chúng ta cũng chả có gì giúp cho người khác, thì lấy gì hồi hướng, nhiều khi tôi nói đùa với các Phật tử là chúng ta mà không có công đức, tu hành mà không có công đức mà ngày nào chúng ta cũng hồi hướng, là giống như là hồi hướng ghi sổ đấy, tôi nói đùa gọi là hồi hưỡng quỵt. Hôm nay tôi mừng tuổi cho mỗi người mười nghìn, nhưng mà tôi chưa có, các vị cứ ghi vào sổ cho tôi, bao giờ tôi có thì tôi đưa. Ngày nào tôi cũng hồi hướng như thế tôi có cái gì đâu thì tôi hồi hướng. Cho nên chúng ta tu học là phải biết điều này, chúng ta có công đức hay không để mà hồi hướng. Trong Phật pháp có nói, ở trong Kinh địa Tạng nói – dù công đức ấy chỉ bằng một hạt cát, bằng một giọt nước, bằng một sợi lông thì cũng là nhân duyên được độ, cho nên chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta không làm được cái gì, hoặc là không thể hồi hướng được. Bởi một trái núi thì cũng phải kết từ những các hạt vi trần nhỏ nhất. Dù công đức của chúng ta chỉ là vi trần thôi, nhưng mà người nào cũng là đem cái tâm hồi hướng như thế thì nhiều cái hạt vi trần cũng sẽ biến thành núi Tu Di. Cho nên tu học thì chúng ta phải biết chỗ này chứ còn đừng có chấp vào Kinh, tại sao lại hôm nay mình đến mình làm lễ cầu siêu mà lại thấy thầy tụng Kinh Phổ Môn mà vẫn là hồi hướng cho vong linh- như thế là chúng ta chấp. Thực ra Kinh của đức Phật không có Kinh nào để chuyên về cầu an cả, cũng không có Kinh nào để chuyên về cầu siêu cả, trong Phật pháp là không có cái chuyện ca an cầu siêu theo cách này, mà tất cả các việc an hay siêu nói cái nguyên tắc của nó cầu mà chúng ta gọi là cầu đó chính là phương pháp hồi hướng công đức. Thế thì tụng Kinh nào cũng thành tựu được công đức hết. Đã có công đức thì hồi hướng thế nào cũng được, hồi hướng cho người sống thì chúng ta gọi là cầu an phải không, hồi ứng cho cái người mà mà chết rồi thì chúng ta gọi là cầu siêu. Không có khác gì cả, cho nên là khi chúng ta hồi hướng là hồi hướng cho cả người sống lẫn người chết, thì là vừa cầu an vừa cầu siêu, có sao đâu. Thực ra thì không có Kinh nào để dùng cầu an, không Kinh nào dùng cầu siêu, chúng ta không cần chấp ở chuyện như vậy. Kể cả các chú thường tụng cũng vậy, cho rằng chú này dùng để tiêu tai cát tường thần chú, cứ lúc nào có tai nạn cầu bình an thì là dùng các cái chú ấy. Người đời cũng cho rằng là bệnh nào thuốc ấy mới là thần y, pháp của đức Phật cũng vậy, là theo từng các căn bệnh khác nhau mà ứng dụng các pháp khác nhau, cho nên là không phải là chú chỉ có Lăng nghiêm, không phải chú chỉ có Đại bi, không phải chú là chỉ có mười chú mà chúng ta thường tụng đâu. Trong giáo pháp của Mật Tông có hàng tám vạn bốn nghìn thần chú khác nhau. Cho nên chúng ta khi tụng Kinh, bắt đầu tụng Kinh là chúng ta đã có chú rồi. Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn, chân ngôn làm cho khẩu nghiệp được thanh. Khi mà chúng ta tụng Kinh, về hình thức là chúng ta phải súc miệng, đánh răng nhưng đấy là chúng ta mới làm sạch bên ngoài, nhưng khẩu nghiệp thì chưa thanh thịnh, cho nên đọc cho chú là tịnh khẩu nghiệp chân ngôn. Thế rồi chúng ta tụng chú Tịnh thân nghiệp Chân Ngôn, Thân nghiệp rồi nhưng mà còn ý nghiệp, cho nên là ý nghiệp nó thành vào cái câu tịnh tham nghiệp tức là cả thân cả khẩu cả ý. Khi chúng ta tụng Kinh như vậy thì sợ rằng là sẽ có các vị hộ pháp chư thiên, mà đặc biệt là cái vị thần gần với chúng ta nhất là thần đất, cho nên phải an thổ địa chân ngôn. Tức là an úy thần thổ địa, là các vị chúng tôi đã đọc tụng Kinh Phật các vị đừng có Kinh hãi làm động điện đến đến các Quỷ thần, nên là an úy người ta, an thổ địa tức là an úy thần thổ địa. Khi an úy rồi, chúng ta mới dùng cả cái ba nghiệp ấy là cúng dàng tam bảo là tụng cái chú phải cúng dàng chân ngôn, tức là những các cái chú ấy, mỗi một cái việc như thế thì đó nó đều có chú cả. Thế rồi ngay kể cả đối với người tu hành mà chúng tôi cũng thế, đánh răng phải đọc chú, rửa tay phải đọc chú, rửa chân phải đọc chú, đi vệ sinh cũng phải đọc chú, súc miệng cũng phải đọc chú, ăn cơm cũng phải đọc thần chú, mặc quần áo phải đọc thần chú, cái gì phải đọc hết thì rườm rà quá, mà Phật tử của chúng ta chẳng thể nào mà nhớ hết được. Cho nên là ở đây thì cái chú quan trọng nhất cho nên là tâm trú, tức là chúng ta dùng cái tâm của chúng ta, định tâm ở trong sự chuyên chú, cho nên là Phật giáo Nam truyền thì người ta không có dùng thần chú đâu, Bắc truyền thì dùng thần chú thôi. Nam truyền là người ta dùng phương pháp gọi là thiền minh sát, bây giờ gọi là thiền minh sát tuệ. Minh sát tuệ là đi đứng nằm ngồi trong Kinh nói – khi đi thì biết mình đi, khi biết đứng mình biết mình đứng, khi ăn mình biết mình ăn, khi ngủ mình biết mình ngủ, tức là đi đứng nằm ngồi đều biết mình đang làm cái gì, thì cái đó chính là chú đấy. Nam truyền người ta gọi là minh sát tuệ. Thế thì đọc thần chú cũng vậy, tức là ở cái phương diện nào thì chúng ta đọc cái đó, nhưng mà nếu mà chúng ta các chú không đọc được, thì tốt nhất là chú tâm vào công đức ở Phật. Thế còn Niệm Phật thì ở trên đã nói rồi niệm danh hiệu chư Phật, thực ra thì hôm trước chúng ta đã nói lễ một đức Phật là lễ hết thảy chư Phật, niệm một đức Phật là niệm tất hết thầy chư Phật. Thực ra thì danh hiệu tuy rằng có khác nhau, nhưng mà mười đức hiệu của chư Phật là giống nhau. Đức Phật nào cũng có đầy đủ danh hiệu là như lai ứng cúng chính biến chi minh hạnh túc thiện thệ thời gian giải vô thượng sĩ điều ngự trượng phu thiên nhân sư Phật thế tôn. Đức Thích Ca cũng vậy, đức A Di Đà cũng vậy, đức Dược sư cũng như vậy. Cái bản thể của Chư Phật là giống nhau, cho nên phần nói về Phật thể tính là một, nhưng mà tướng dụng có khác, cho nên là danh hiệu nó khác thôi. Ở đây phân tích một danh hiệu một chút, để chúng ta biết là tại sao niệm một đức Phật là niệm hết thảy chư Phật, tức là danh hiệu của chư Phật đó là đức hiệu, tức là cái danh hiệu ấy nó chứa đựng công đức, chứa đựng công đức, và nó mang tính chất biểu tượng hay là biểu tượng. Ví dụ như đức Phật A di đà thì chúng ta biết rằng A di đà thì dịch là vô lượng thọ, vô lượng quang. Vô lượng thọ là biểu thị cho từ bi, cho nên là tại sao có cái tuổi thọ vô lượng thì phải tu từ bi mới mới có tuổi thọ, từ bi bất sát cho nên trong Tịnh Độ Tam Phúc đầu tiên là từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. Cái đó là Từ. Thế rồi vô lượng quang. Quang là gì, quang là trí tuệ, cho nên là danh hiệu của đức Phật nào cũng có đầy đủ hai cái đức hiệu là từ bi trí tuệ. Vì thế chúng ta biết rằng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí là hai Bồ tát thị giả đức Phật A di đà. Bồ tát Quan Thế Âm là chính là đại bi quán thế âm, tức là biểu thị Từ Bi. Bồ Tát Đại Thế Chí là biểu thị cho đại trí tuệ. Cho nên là cũng là từ bi và trí tuệ, có thế thôi. Đức Thích ca Mâu ni chúng ta dịch thích cá là năng nhân, mâu ni dịch là tịch mặc. Năng nhân tức là chính là từ bi đấy, tịch mặc tức là trí tuệ, thì cũng là từ bi và trí tuệ, hai vị Bồ tát đứng hầu đức Phật Thích ca là Bồ tát Văn Thù, Bồ Tát Văn Thù là gì là trí tuệ, Bồ tát Phổ Hiền là gì, cũng là từ bi, bởi vì là biểu tượng là thanh sư, thanh sư là cưỡi con sư tử là biểu thì sức mạnh về trí tuệ. Còn Bạch Tượng là biểu thị cho đại hùng và từ bi, đều là từ bi trí tuệ cả. Thế đơn cử như ví dụ như danh hiệu đức Dược sư chẳng hạn, Dược sư Lưu ly quang như lai. Chữ Dược sư là thầy thuốc phải không, thầy thuốc là từ bi, lưu ly quang là trí trí tuệ. Khi mà phân tích như thế thì chúng ta mới biết rằng, danh hiệu của đức Phật nào cũng đầy đủ hai đức tính từ bi và trí tuệ. Vì thế mới nói niệm một đức Phật là niệm hết thảy chư Phật. Và chư Phật thì đồng một thể tính là từ bi và trí tuệ. Cho nên là chúng ta niệm đức Phật nào cũng được ví dụ như là chúng ta cái chuyện niệm danh hiệu đức bản sư Thích ca mâu ni Phật cũng được, người tu Tịnh độ cầu sinh Tây phương thì chuyên niệm danh hiệu đức Phật A di đà. Người mà cầu sinh về Đâu suất đà thiên để tương lai gặp đức Phật Di lặc thì chúng ta niệm Di lặc tôn Phật, người nào mà chú tâm về cầu an, niệm Tiêu tai diên thọ Dược sư Phật, thực ra đức Phật Dược sư không có danh hiệu tiêu tai, diên thọ, Ngài chỉ có danh hiệu là Dược sư Lưu ly quang như lai thôi. Nhưng mà do cái năng lực của Kinh mà chúng ta tu tập như thế thì có giúp cho chúng ta có khả năng tiêu trừ được tai nạn, mà tai nạn đã tiêu trừ được rồi thì phúc nó sẽ tới, và trong cái những cái phúc mà người ta mong cầu nhất đó chính là tuổi thọ, cho nên là ghép vào thành tiêu tai diên thọ, diên là kéo dài, thọ tuổi thọ. Tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ, chính là năng lực của đức Phật Dược sư. Thì đấy khi mà chúng ta Niệm danh hiệu Phật, thì chúng ta cũng phải hiểu ý nghĩa mà danh hiệu mà chúng ta niệm. Do vậy người niệm danh hiệu đức Phật A di đà, khi mà chúng ta niệm một câu A di đà Phật hoặc chúng ta gặp ai chúng ta chắp tay chúng ta chào, chào ai chúng ta cũng cúi đầu A di đà Phật là cầu chúc cho các vị được trí tuệ và tuổi thọ. A di đà Phật tức là chúng ta chào người khác đấy, và cái câu đó chính là gì chúc cho các vị có gì có sức khỏe và trí tuệ. Có thế thôi. Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thì cũng là cầu cho các vị có từ bi và trí tuệ, không khác. Khi mà chúng ta niệm Nam mô A di đà Phật – Nam mô A di đà Phật, tức là quy kính đức Phật vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức. Khi Niệm Phật thì chúng ta phải quán chiếu như thế, vì thế Chư Tổ mới có nói là niệm Phật trong tâm phải có Phật, khi mà chúng ta Niệm Phật là trong tâm chúng ta phải quán tưởng đến công đức của chư Phật. Và công đức của chư Phật nói đầy đủ là thập hiệu, nói một cách vắn tắt mà đơn giản nhất đó là từ bi và trí tuệ. Hôm nay chúng ta xin tạm dừng ở đây, cầu chúc cho chúng ta có đầy đủ từ bi và trí tuệ.
Nam Mô A Di Đà Phật
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 8 : TỤNG KINH TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 06.03.2022
GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI



