LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 8 : TỤNG KINH – TRÌ CHÚ – NIỆM PHẬT ( Phần Tiếp Theo )

BÀI 8- PHẦN 2

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!

Kính thưa các quý vị, hôm nay chúng ta tiếp tục bài số 8 Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật. Đến phần 4 lớn, lợi ích của việc Tụng Kinh Trì Chú và Niệm Phật. Xin mời các vị nào phát tâm đọc bài. 

Kinh văn:

IV. LỢI ÍCH CỦA SỰ TỤNG KINH – TRÌ CHÚ – NIỆM PHẬT

1. Lợi ích của sự tụng kinh.

Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:

a) Cho mình: Lúc tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ suất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều thâu nhiếp lại một chỗ. Chăm lo tụng kinh, nên ba nghiệp của thân, khẩu, ý không còn móng khởi lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải.

b) Cho gia đình: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.

c) Cho người chung quanh: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bổng theo với tiếng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh điển mà hành giả đang tụng.

Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.

2. Lợi ích của sự trì chú.

Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy.

Có thể nói: Một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn-Thù Sư-Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, bác sĩ ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung Việt. Một lần bác sĩ bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú “Công Ðức Bảo Sơn”, bác sĩ liền đem thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho bác sĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật bác sĩ lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.

3. Lợi ích của sự niệm Phật.

Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v…

Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni có dạy rằng: “Sau khi Phật nhập diệt, về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”, mà đủ năng lực đưa chúng sinh về cõi Cực lạc”.

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sinh. Như ngài Tổ Huệ Viễn, trong mười năm niệm Phật, ba lần thấy đức A-Di Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép “Trì danh niệm Phật”, đều lần lượt được Phật rước về cõi Tịnh độ. Gần đây ở Nam phần Việt Nam, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là đại úy Touffan, trung úy Retourna, thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thủy phi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài Gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy phi cơ lững đững trên mặt biển suốt ba giờ đồng hồ, mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi ba vị sĩ quan vừa bước sang tàu, thì chiếc thủy phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tại sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Sài Gòn, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát Lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây nói về lợi ích thù thắng của việc Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật. Trong tất cả các kinh điển xưa nay đều nói đến, ví dụ như Kinh Pháp Hoa có rất nhiều câu chuyện liên quan đến sự ứng nghiệm của trì tụng Pháp Hoa, hoặc những người trì tụng Thủy Sám cũng có những câu chuyện ứng nghiệm liên quan. Trì Chú cũng vậy, niệm Phật cũng vậy, lợi ích trong bài này đã nói rồi, nhưng ở đây tôi xin nói một chút về cảm ứng hay là sự linh nghiệm xuất phát từ đâu. Thực ra chúng ta biết rồi, Tụng Kinh là để cho bản thân chúng ta nghe, Trì Chú cũng vậy, Niệm Phật cũng vậy. Đây chính là phương pháp, hay gọi là phương tiện để tu học chứ không phải chúng ta Tụng Kinh để Phật nghe, chúng ta cũng không Tụng Kinh để cầu đảo. Và trong bài trước chúng tôi đã nói, Đức Phật nói mọi người cầu đảo để hòn đá chìm, nổi là chuyện không thể. Nhưng tất cả các Kinh điển đều có ghi nhận rằng việc Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật đều có sự linh ứng. Vậy sự linh ứng ấy xuất phát từ đâu? Ở đây chúng tôi xin giải thích mấy phương diện. Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Tụng Kinh, Niệm Phật, Trì Chú là phương tiện để tu hành cũng giống như tất cả các phương tiện khác, ví dụ như l ngồi thiền, ví dụ như tu mật, và tụng kinh. Ví dụ, tu Tịnh độ là niệm Phật. Con đường tu học mà Đức Phật chỉ dạy- chúng ta thực hành Giới, Định và Tuệ. Giới sẽ phát sinh được định, là do định thì sẽ phát sinh tuệ. Ở đây, khi tụng kinh đến chỗ nhiếp tâm, tức là tam nghiệp túc kính thì lúc bấy giờ chính là cận định, hoặc có thể có những người nhập định ngay trong khi Tụng Kinh. Xưa kia Thiên Thai Thính Giả đại sư tụng Kinh, Ngài nhập vào trong Pháp Hoa đại định, cho nên  thấy cảnh Đức Thế Tôn thuyết pháp ở Hội Linh Sơn và pháp hội ấy vẫn còn, Đức Phật vẫn đang nói pháp, tức là cảnh tượng Đức Phật nói kinh Pháp Hoa hiện ra trước mắt. Những người niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn, trong Kinh Di Đà nói – Nhất nhật lãi thí thất nhật mà đạt đến nhất nhất tâm bất loạn thì cảnh giới Tây Phương Tịnh độ cũng tự hiện ra trước mắt, cho nên là Chư Tổ Tịnh Độ Niệm Phật Tam Muội chứng đắc được niệm Phật Tam muội thì cảnh Tây Phương hiện tiền, Đức Phật cũng hiện tiền, các vị khác tu theo các pháp môn khác, có thể là thấy Phật, thấy Bồ Tát Văn Thù, thấy Bồ Tát Phổ Hiền đến xoa đầu thụ ký, hoặc thuyết pháp cho nghe, thì đó do Định, là những sự màu nhiệm, chúng ta gọi là màu nhiệm đó chính là thuộc cảnh giới trong định. Cho nên, ngoại đạo người ta cũng tu thiền định và chỉ cần vào được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền mà phát huy,hướng tâm đến thần thông, thì tự nhiên mọi thứ thần thông đều có thể chứng đạt được và ngoại đạo người ta có thể đạt được năm thứ thần thông: Thiên Nhãn Thông, họ cũng có thể đạt được Thiên Nhĩ Thông, họ đạt được Tha Tâm Thông, họ đạt được Thần Túc Thông, họ đạt được Túc Mệnh Thông, duy nhất một thứ họ không đạt được, đó là Lậu Tận Thông và Đức Phật mới đạt đến Lậu Tận Thông. Lậu Tận Thông nó tương ứng giai đoạn thứ tư là do giới sinh định, pháp, tuệ, do tuệ chứng đắc giải thoát và giải thoát tri kiến. Thần thông- những thứ chúng ta gọi là linh nghiệm – cái đó là thuộc về cảnh giới thuộc về định hướng, do định hướng cho nên tất cả mọi thứ đều có thể chiêu cảm được. Nói một cách đơn giản thế này, tâm chúng ta giống như dòng nước đục, cho nên chúng ta càng khuấy nó càng đục. Hàng ngày chúng ta mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý- sáu căn tiếp xúc với sáu trần, cho nên vọng tưởng vọng tâm sinh ra và giống như là dòng nước đục mà chúng ta cứ khuấy lên thì nước đục và sẽ không nhìn thấy cái vật gì trong đó cả. Mặc dù là trên bầu trời có mặt trăng, có mặt trời, thì cũng không in vào đáy nước đục. Nhưng nếu chúng ta lắng, nước trong đi, thì lúc bấy giờ trên bầu trời có mặt trăng sẽ tự hiện, nước càng trong bao nhiêu thì chúng ta thấy mặt trăng nó giống như thật vậy. Tâm chúng ta khi tụng kinh là khẩu nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh cũng giống như nước trong và bấy giờ nguồn trí tuệ tự phát sinh. Do trí tuệ phát sinh thì chúng ta hướng tâm đến cái gì thì tự thành tựu cái đó. Cho nên, nếu chúng ta hướng tâm đến đến trị bệnh chẳng hạn, thì bệnh tật tự khỏi, khi mà gọi là gặp tai nạn mà hướng tâm đến điều đó thì tự có một năng lực làm cho mình tự vượt ra khỏi tai nạn đó mà không hề tai nạn. Ví dụ như, tai nạn đột ngột xảy đến, chúng ta niệm danh hiệu Phật mà đạt đến định tâm ngay lúc bấy giờ, bỏ ngoài ra sống chết thì tự nhiên chúng ta thấy là như có năng lực làm cho chúng ta vượt ra khỏi cái ta vượt qua tai nạn ấy, ví dụ như bị xe đâm chẳng hạn, những khi người văng ra bên ngoài mà không xây xát gì. Đấy chính là năng lực của Đinh, chứ không phải sự thần thông, hay là cái sự gia trì, gia hộ. Cái này nó thuộc về năng lực của thần thông. Tại sao thời Đức Phật có một người mà sau này trở thành cuồng tâm phá Phật, chính là Đề Bà Đạt Đa, chỉ nhằm tu thần thông mà không cầu giải thoát. Cho nên khi thần thông xuất hiện, thấy có năng lực ghê gớm lắm, và sinh ra hoang tưởng cho rằng là mình đã chứng đắc thánh quả, cho rằng có thể thay thế Đức Phật để lãnh đạo Tăng Đoàn. Khi ông ta cầu xin, đức Phật đã quở trách, cho nên Đề Bà Đạt Đa lấy làm xấu hổ rồi trở nên thành thành cùn quấy và tìm cách hại Phật. Đây chính là hậu quả của cái chuyện là tu mà cầu Đắc, Tu mà cầu thần thông. Cho nên những pháp này Chư Tổ xưa nay là không chỉ dạy và cũng đặc biệt không bao giờ quảng bá. Người tu chân chính là không bao giờ thể hiện thần thông, không bao giờ đem những chuyện thần thông ra giảng, bởi vì điều đó dễ mê hoặc người đời nhất. Cho nên, bây giờ thâys ai nói rằng tu đạt thế này, thế kia, đắc thần thông thế này thế khác thì Phật dạy đừng có nghe. Thấy tụng kinh đến mức là trời rồng, quỷ thần đến, rồi cảm ứng điều nọ điều kia. Khi đó chúng ta chỉ có thể cầu thỉnh các bậc Cao Tăng để hỏi xem những hiện tượng đó là cái gì, nếu không cẩn thận thì sẽ dẫn đến việc đi về đường tà, giống như trường hợp của Đề Bà Đạt Đa vậy. Cho nên, vị nào mà đã từng tụng Kinh Lăng Nghiêm thì chúng ta sẽ thấy có một chương nói về Ngũ Thập Ấm Ma, tức là 50 cảnh tượng thuộc ngũ ấm xuất hiện mỗi một nhóm gọi là uẩn của chúng ta xuất hiện ra mười thứ cảnh giới và do năm nhóm ấy sẽ xuất hiện 50 loại cảnh giới, nhiều cảnh giới như là thật. Nhưng Đức Phật chỉ ra, đó đều là cái cảnh giới xuất hiện từ trong tâm, lúc bấy giờ chúng ta vào trong cận định thì nó xuất hiện thôi, và cái đó không phải là cảnh chứng thật, và nó hoàn toàn là do tâm tưởng của chúng ta, gọi là vọng tưởng nó tự khởi lên. Cho nên mong rằng, các Phật tử phải hết sức lưu ý về điều này. Trong trong Kinh Lăng Nghiêm chỉ rất rõ, có những người là thấy cả Phật, Bồ Tát, rồi thấy có người thuyết pháp cho mình và thấy người có thể nhẹ bỗng như bay lên được. Cái đó đều là cảnh của ngũ ấm. Chúng ta vào được trong định thì tất cả năng lực đó tự có. Cho nên là những câu chuyện mà Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật đạt đến sự linh nghiệm là nó ở cái chỗ đấy. Về cái phương diện thứ hai là phương diện gia hộ của Quỷ Thần, thì như hôm trước tôi có nói là khi mà chúng ta nhất tâm Tụng Kinh, Niệm Phật, Trì Chú, thì tự nhiên sẽ có các vị Hộ Pháp Chư Thiên thuộc Bát Bộ- Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân phi nhân. Họ là những người khuất mặt, chúng ta không nhìn thấy được, nhưng mà họ vẫn tới nghe chúng ta Tụng Kinh Thuyết Pháp, khi chúng ta Tụng Kinh, Thuyết pháp như vậy, thì tự chiêu cảm cái năng lực họ đến gia hộ và tạo nên những cảnh tượng kỳ lạ. Ví dụ như thấy hương thơm lạ, thấy ánh sáng lạ, hoặc là thời tiết lạ. Cho nên có các bậc tu chứng, khi các Ngài viên tịch chẳng hạn, thì chúng ta thấy nói rằng có những Thụy Tướng, như là mây lành, rồi ánh sáng, rồi hương thơm, cái đó không phải là tự các Ngài hiện ra, mà cái đó là do Hộ Pháp Chư Thiên Quỷ Thần, các năng lực đó họ tự hiện ra để cho người khác thấy được mà sinh tâm tín kính, đấy chính là hiệu ứng thứ hai mà chúng ta gọi là có Hộ Pháp Chư Thiên hộ trì. Cho nên, phàm đến những cái ngôi chùa nào, hoặc đến những cái chỗ nào có những người tu hành thật sự, nếu người nào có năng lực tâm linh nhạy cảm, bước vào đó tự thấy tinh thần khác ngay. Như là có từ trường – từ trường của từ bi, từ trường  của trí tuệ lan tỏa ở nơi các vị. Có những cảnh giới mà chúng ta đến đó là tự nhiên thân tâm an, mọi việc được tốt đẹp. Đấy chính là nhờ năng lực của các vị tu hành và có các bậc Chư Thiên Hộ Pháp bảo vệ thì tự tạo nên an lành. Cho nên, trong Kinh Điển của Bắc truyền chúng ta ít đề cập, nhưng Nam truyền khi người ta tụng kinh sẽ có lời trước khi tụng kinh – xin cung thỉnh các vị Chư Thiên, các vị Hộ Pháp, các vị ở các cõi này cõi khác. Xin mời các vị hãy đến đây cùng nghe lời chính pháp của Đức Phật. Sau khi thỉnh mời tất cả các vị đó rồi mới chính thức tụng Kinh. Sau khi tụng Kinh rồi thì người ta lại có lời nguyện giống như chúng ta hồi hướng- đem các phước báu mà tụng Kinh để chia sẻ đối với tất cả những các vị hộ pháp đó, rồi người thân, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quá khứ nhiều đời. Chư Tăng phật tử Nam truyền trước và sau khi tụng Kinh có nghi thức đó. Thực ra, trong các nghi thức tụng Kinh của chúng ta vẫn có. Ví dụ như chúng ta đỉnh lễ Phật Bồ Tát, đỉnh lễ Hộ Pháp Chư Thiên, chính là mời gọi các vị đến để nghe Pháp, và khi mà kết thúc thời Pháp như thế thì chúng ta cũng đem những công đức đó để hồi hướng. Cho nên cuối cùng chúng ta nguyện dĩ thử công đức chính là làm cái việc đó, cũng không có khác gì cả. Ở đây xin thưa một cái câu chuyện, chính bản thân Đức Phật- trong Kinh và trong Luật có ghi chép một câu chuyện thế này. Một lần Đức Phật có bệnh, bệnh đó làm cho Đức Phật đau đến mức kịch liệt, tưởng chừng nếu đối người bình thường là không thể chịu đựng được, vào lúc bấy giờ thì Tôn Giả Xá Lợi Phất có đến thăm bệnh cho Đức Phật, đến hỏi thăm vấn an bệnh- Bạch Đức Thế Tôn, cơn bệnh ấy Đức Thế Tôn có kham nhẫn được không, có chịu đựng được không? Đức Thế Tôn nói rằng là quả thật là căn bệnh này khó kham nhẫn, khó chịu đựng. Đức Thế Tôn có nói với ngài Xá Lợi Phất là ông hãy yụng Kinh Thất Giác Chi cho tôi. Đức Phật yêu cầu Ngài Xá Lợi Phất Tụng Kinh lại phát tổng kinh nghe như thế thì ngài Xá Lợi Phất sợ lắm, làm sao mà đệ tử dám tụng kinh cho Thầy- Bạch Đức Thế Tôn, Kinh là do đức thế Tôn dạy, chúng con đâu có dám tuyên kinh, tức là giảng lại cái bản kinh ấy cho Đức Phật. Tụng tức là đọc lại cho Đức Phật nghe, Ngài Xá Lợi Phất không dám. Đức Phật nói lần thứ hai rồi ngài vẫn từ chối là không dám tụng, mà nói đến lần thứ ba nói rằng là tôi bảo ông tụng-lúc bây giờ là từ chối đến ba lần rồi, Đức Phật cũng phải nói xẵng giọng  nói- bảo ông tụng thì ông cứ tụng đi.  Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phật sợ quá, quỳ xuống và Bạch Đức Thế Tôn trước đây con đừng nghe Đức Thế Tôn dạy rằng ngày đọc lại cái bản kinh đó, Kinh Thất Giác Chi, khi tụng xong cái bản kinh đó thì Đức Phật khỏi bệnh. Bản thân Đức Thế Tôn cũng còn phải nghe Kinh để trị bệnh. Ngày trước ngài đã giảng ra Kinh sao ngài không vận dụng? Thực ra bản Kinh liên quan đến pháp tu Thất Giác Chi- là phải nhập vào trong Thất Giác Chi ấy, tức là khi nghe kinh rằng là dùng cái lời kinh để hướng dẫn và đức Phật phải dùng cái đó bởi vì lúc bấy giờ đang bị cơn đau, cho nên là khó tập trung, Ngài phải dùng  lời hướng dẫn đó để bắt đầu từ lời Kinh đó, rồi ngài nhập vào định, và do hỉ sinh ra khinh an, khinh an tự nhiên là thấy thân thể nó nhẹ nhàng, thì mọi cái liên quan đến đau đớn, bệnh tật nó tự tiêu tan hết. Sau khi Đức Phật nghe xong bản kinh ấy thì bệnh tự khỏi. Đây là câu chuyện có thật ghi trong trong kinh điển của Đức Phật. Và ngoài ra có rất nhiều vị tôn giả khác kể cả những người tại gia, kể cả thân phụ của Đức Phật, khi lâm chung cũng rất là đau đớn vì có bệnh, và Đức Phật cũng đã đã an ủi, tụng Kinh này khác. Bây giờ chúng ta gọi là tụng Kinh, lúc bấy giờ là thuyết pháp, khai thị. Đức Vua cũng đã lập tức vượt qua sự đau đớn của bệnh tật và chứng đến Thánh quả thứ ba. Cho nên chúng ta thấy những trường hợp trợ niệm lúc lâm chung có lịch sử của nó, điều này không phải là bây giờ chúng ta mới làm. Thời Đức Phật, chính Đức Phật cũng đã làm chuyện này đối với thân phụ của Ngài rồi. Có một câu chuyện nữa là chính là Trưởng Giả Cấp Cô Độc- Vị cư sĩ Phật tử gọi là thuần thành hạng nhất của Đức Phật. Cúng cái vườn mà đã mua bằng cách là trải vàng, đến lúc ngài cũng chuẩn bị ra đi cũng bệnh kịch liệt và rất là đau đớn. Bấy giờ, vị ấy tâm niệm rằng muốn gặp Tôn Giả Xá Lợi Phất. Đức Phật biết tâm niệm đó, cho nên nói ngài Xá Lợi Phất và ngài A Nan đến thăm bệnh cho ông ấy. Và lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất đã giảng lại cái Kinh Vô Ngã Tướng mà Đức Phật trước đây đã giảng. Sau khi nghe cái bản kinh đó, thì tự nhiên là Trưởng giả Cấp Cô Độc cũng hết bệnh. Và ngay sau khi nghe bản Kinh đó cũng chứng đến Thánh quả thứ ba. Lúc sinh thời là ông ấy chỉ chứng Thánh quả thứ nhất thôi, nhưng mà cận kề lúc lâm chung, lúc bấy giờ đối diện với sinh tử, người ta có khả năng giác ngộ rất nhanh. Cho nên chúng ta thấy pháp môn niệm Phật mà trợ niệm lâm chung lúc bình thường không niệm Phật mà lúc bấy giờ Niệm Phật người ta có thể vãng sinh được, chính là chỗ này. Lúc bấy giờ người ta đối mặt với sinh tử, người ta lập tức có thể ngộ ra được lẽ sinh tử là cái gì? Và khi ngộ được lẽ sinh tử thì một câu Phật hiệu có thể quay đầu, có thể vãng sinh chính là lý do này. Cho nên là ngày nay mà chúng ta tụng Kinh Niệm Phật không những lúc sống, mà đặc biệt là lúc giúp cho người bệnh đau đớn, bệnh tật để có được sự ra đi nhẹ nhàng là hết sức hiệu nghiệm, cái này không riêng gì Phật Giáo đâu. Riêng pháp môn trợ niệm này ở Việt Nam chúng ta trong các bệnh viện chưa được đề cập đến. Nhưng mà theo thông tin mà chúng tôi biết thì các nước phương Tây, người ta đã đem phương pháp này được sử dụng trong bệnh viện, để giúp cho người ta có phương pháp ưu tử, tức là giúp cho người chết được chết một cách hạnh phúc, bằng cách đấy, giống như chúng ta gọi là phương pháp trợ niệm, tức là đọc Kinh hoặc là khai thị để cho người ta buông bỏ những sự vướng mắc, rồi giúp cho người ta giảm bớt những sự đau đớn và ra đi trong sự nhẹ nhàng, thì đấy cũng là khía cạnh khác của tụng Kinh. Điều này cũng liên quan đến cốt lõi của nó, là khi đạt đến Định tâm, tâm người ta chú vào một chỗ thì là nó Định. Trong Kinh Niết Bàn, rồi Kinh Di Giáo có câu là Chế tâm nhất xứ, Vô sự bất biện- tức là chúng ta đưa tâm vào một điểm, nhất xứ là một điểm thì không có việc gì không làm được. Làm được tất cả mọi thứ, đến Phật còn làm được, chứ đừng nói là chuyện là tai qua nạn khỏi. Nên nhớ rằng, việc Tụng Kinh Trì Chú Niệm Phật là phương pháp để tu và tất cả mọi phương pháp tu tập của Phật Pháp thì không ngoài vấn đề là đạt đến Giới, Định và Tuệ. Chúng ta Tụng Kinh, Niệm Phật là để đạt được định, nhưng chúng ta muốn đạt định nhanh chóng thì rõ ràng phải giữ giới, không còn giữ giới thì chúng ta khó mà đạt được định. Cho nên là tại sao người này tụng Kinh người ta thành tựu, mình tụng mãi mình không thành tựu, là chính vì nền tảng giới học của chúng ta kém, không có giữ giới, không cẩn trọng trong vấn đề giới luật. Thế nên, vấn đề này chúng ta phải hiểu rõ như vậy. Nếu có gặp những trường hợp đó thì đừng có rơi vào tuyên truyền thần thông diệu dụng dẫn đến hoang đường hoặc là dẫn đến mê tín. Nhưng chúng ta hiểu được nguyên lý của nó thì khi có những hiện tượng đó xảy ra đến chính cả bản thân mình hoặc những người khác thì chúng ta có thể biết được nó ở phương diện nào. Đấy là nói về lợi ích. Bây giờ chúng ta sang  phần kết luận.

Kinh văn:

C. KẾT LUẬN

Khuyên Phật tử tụng kinh, niệm Phật và trì chú cả Sự lẫn Lý cho được viên dung.

Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù Tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời ba phương pháp nầy được. Bởi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú cho Sự, Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.

Ba pháp môn tụng kinh, trì chú và niệm Phật, tuy không đồng mà kết quả đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi già, sức yếu, mắt lờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh, trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng phải niệm Phật.

Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gội rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đặt vào đấy hình ảnh của đấng từ bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng quả thánh không sai.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây thì chúng ta biết mục đích, ý nghĩa, lợi ích của việc Tụng Kinh, Trì Chú Niệm Phật. Chư Tổ có dạy – tụng kinh giả khán Phật tri lý.  Tụng kinh là để hiểu rõ nghĩa lý mà đức Phật chỉ dạy. Hiện nay có một số Chư Tăng, Phật tử mặc dù là tụng kinh bằng tiếng Việt nhưng lại là Âm Hán Việt, và bản thân chúng ta tụng mà không hiểu thì làm thế nào. Ví dụ như là đơn giản là bản kinh Phật thuyết A Di Đà Kinh mà chúng ta không biết chữ Hán, chúng ta không hiểu chữ Hán chúng ta vẫn cứ tụng? Như thị ngã văn nhất thời Phật tại xã với Quốc cứ thế đọc thôi, thì thực ra mà chúng ta đọc như thế thì cũng giống như Trì Chú không có khác, tức là đọc mà không hiểu. Ở đây điều quan trọng là Tụng Kinh Giả khán Phật tri lý, ngoài việc khi tụng Kinh để cho ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh ra thì còn nhiệm vụ quan trọng hơn – để chúng ta hiểu rõ nghĩa lý ở trong kinh, mà có hiểu rõ nghĩa lý ở trong kinh rồi thì chúng ta mới có thể áp dụng để tu tập.  Chư Tổ có dạy một câu thế này “dĩ Phật pháp vi minh kính chiếu kiến tự tâm”. Hàng ngày chúng ta có soi gương không? Có phải không? Chuyện đó là chuyện thường xuyên đấy, không phải là soi một lần đâu mà nhiều người là soi rất nhiều lần. Đặc biệt là các vị nữ là đi đâu cũng có, có cả cái gương ở trong túi thỉnh thoảng bỏ ra ngắm cái xem nó có được hay không. Soi gương có tác dụng. Thứ nhất là phản ánh nó phản ánh một cách trung thực xấu -đẹp, nhìn vào gương biết ngay. Sau đấy giúp cho chúng ta cảnh tỉnh, chúng ta soi để xem nếu mình chưa đẹp thì mình phải sửa lại cho đẹp, cảnh tỉnh chính là sửa lại. Thế thì tụng Kinh cũng giống như soi vào gương. Chư Tổ mới nói – Dĩ Phật pháp vi minh kính, tức là dùng Phật pháp làm tấm gương sáng. Cái tấm gương này không phải để soi cái mặt của chúng ta xấu hay đẹp, mà để soi cái tâm của chúng ta, tâm chúng ta không ai soi được, mà tự bản thân chúng ta nhiều lúc cũng không soi được tâm của mình thiện hay ác, tốt hay xấu, việc mình làm như thế có đúng hay không đúng. Nhưng chỉ khi mà chúng ta đọc vào kinh Phật, lắng đọng tâm tư, đối chiếu bản thân mình với những lời Đức Phật dạy trong Kinh, thì chúng ta mới biết là thiện hay ác, xấu hay tốt, hay hay dở và khi biết như thế rồi thì chúng ta mới có khả năng sửa chữa. Còn thông thường chúng ta tụng kinh, niệm Phật, trì chú  thì lúc bấy giờ chí ít là thân nghiệp, khẩu nghiệp loại trừ được thất tri tội của thân và khẩu. Nhưng nếu Tâm vẫn còn vọng tưởng tham sân si thì chưa đạt đến dụng công đi vào định ở trong Tâm. Nếu nhiếp tâm ý thì Tâm chúng ta sẽ vào định, định đó thuộc cận định chứ không phải thuộc về thiền định chân chính. Nếu không hiểu rõ vấn đề như đã nói ở trên, khi tâm tạm thời định như thế sẽ có khả năng giúp cho chúng ta xuất hiện những vấn đề mà chúng ta gọi là hiệu ứng, hay hiệu quả hay linh nghiệm. Người học Phật chân chính thì đừng cầu linh nghiệm. Đừng bao giờ cầu linh ứng, không cần cầu mà có thì đó là hệ quả, chứ không phải là mục đích của học Phật. Mục đích của học Phật là giải thoát, muốn giải thoát được thì phải hiểu và tu đúng lời Phật. Cho nên, xưa nay các Tổ có dạy, trong Kinh Pháp Hoa cũng nói trong phẩm ngũ chủng pháp sư, là đọc nhiều thì có khả năng tụng. Nên chúng ta bắt đầu dụng công từ việc đọc, đọc bằng sách cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, tức là mang kinh ngày nào cũng đọc, lâu dần sẽ có khả năng thuộc long. Khi thuộc lòng thì gọi là tụng. Đọc, tụng khác nhau như vậy. Tụng lâu rồi thì tự nhiên có khả năng hiểu nghĩa, chúng ta tụng thì nghĩa lý ở trong kinh tự rõ ra. Nếu chúng ta đã nghe hoặc chúng ta đã tụng bằng quốc ngữ, tụng lâu một cách thuần thục thì khi chúng ta nhắm mắt mà chúng ta tụng một cách chậm rãi quán tưởng có thể đạt đến cảnh giới Tịnh Độ có thể hiện tiền ngay trước mắt, chính là nhập quán tụ kinh, đạt đến ngộ lý. Đó là bước thứ ba, đọc nhiều thì có thể tụng, tụng thì có thể hiểu, hiểu rồi thì có thể tu hành, và khi mà chúng ta có khả năng tu rồi chúng ta có thể chứng nghiệm được điều đó mới có khả năng ấy thuyết giảng, tức là giảng giải cho người khác. Đây chính là năm bước trong kinh Pháp Hoa nói- đọc, tụng, giải nghĩa, thuyết, tu hành, tức là đúng như lời Phật dạy, tu hành cuối cùng là giảng, nói cho người khác. Khi chúng ta tụng kinh, thuyết Pháp là phải đạt đến chỗ này khi đó lời Phật dạy chúng ta mới có thể hiểu rõ. Hiểu một cách chính xác thì chúng ta mới có thể thực hành một cách chính xác được, mà chỉ thực hành chính xác chúng ta mới có thể đem lại kết quả đúng. Nên trong bát chính đạo, cái đầu tiên là chúng ta phải có chính kiến, chính tư duy. Nghe rồi thì phải suy nghĩ, tư duy, tư duy chân chính rồi từ lúc bấy giờ nó mới có ngôn ngữ chân chính, rồi có hành động chân chính, rồi nghề nghiệp chân chính, rồi tinh tiến chân chính, rồi niệm chân chính và chính niệm và cuối cùng là đạt thiền định, chính định. Khi đạt được chính định này thì hướng tâm đến giải thoát, giải thoát tri kiến là có thể đạt được. Đấy chính là mục đích của chúng ta, học Phật thông qua ba phương diện thông thường mà phật tử chúng ta thường ứng dụng, tức là tụng kinh, trì chú và niệm Phật.

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 8 : TỤNG KINH – TRÌ CHÚ – NIỆM PHẬT ( Phần Tiếp Theo )

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 13.03.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
BÀI 3 – KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG – BUỔI 9
BÀI 3 – KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG – BUỔI 9
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 3: KINH LUẬN CĂN BẢN CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG ( BUỔI 9 ) ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 3 : VÔ THƯỜNG
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 3 : VÔ THƯỜNG
VÔ THƯỜNG- PHẦN 1 Hôm nay chúng ta sang bài mới là bài Vô thường. Xin mời vị nào phát tâm...
Kinh thiện sinh – phần 3
Kinh thiện sinh – phần 3
https://youtu.be/PtSRAa1_wQs?si=_JjhwUtFMcne6UOh
Được xem nhiều