BÀI 9- ĂN CHAY
Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính thưa đại chúng, hôm nay chúng ta sang một chủ đề mới- bài thứ chín về vấn đề ăn chay, xin mời các quý vị phát tâm đọc bài.
Kinh văn:
A. MỞ ÐỀ
Ăn chay là một phương pháp tu hành của người Phật tử.
Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Nếu sống mà không cần ăn, thì tất cả chúng sinh đều thành thánh cả rồi. Ðức Phật Thích-Ca, khi còn là một vị thái tử, đã nói một câu đầy ý nghĩa: “Sự sống sống bằng sự chết”. Hãy nghĩ lại mà xem: Từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng ta đã làm chết bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn, chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta đứng, chúng ta đi, mỗi động tác như thế, đều đã gây bao tang tóc cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta! Ðó là chưa kể những kẻ hung ác, giết để được thích thú, được tiền tài, danh vọng…Nếu sự sống mà không làm ai chết ai cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu! Sự ước ao này có thể thực hiện được một phần lớn, nếu chúng ta áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đã chế ra.
Như thế, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ. Ăn chay chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng, mà người Phật tử thực hành được nhiều chừng nào thì được nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy.
Giảng giải chi tiết:
Kính thưa các quý vị, đối với Phật giáo Bắc truyền chúng ta, ăn chay là điều bắt buộc đối với người xuất gia và tại gia. Song, đối với những người tại gia có trường hợp ăn chay nhật, có những trường hợp ăn chay trường. Vậy ăn chay nghĩa là thế nào, trong thuật ngữ chúng ta có hai vấn đề cần phải phân biệt rõ- trì trai và ăn chay. Thông thường, nói tới trai giới được hiểu rằng là ăn chay và giữ giới, như thế là không chính xác. Trai là thuộc bát quan trai, trì trai tức là không ăn quá giờ ngọ, đó được gọi là trì trai. Trai là thanh tịnh, mà thanh tịnh là không ăn quá giờ ngọ, từ sau mười hai giờ cho đến trước khi bình minh của ngày hôm sau, trong Phật giáo gọi đó là phi thời. Trong kinh Phật dạy – chư Thiên thì ăn vào buổi sáng, chư Phật thì ăn vào giờ ngọ, súc sinh ăn sau giờ ngọ và ngã quỷ tức- quỳ đói, chúng ta gọi là ma đói thì ăn vào buổi tối. Người học Phật thì nên học theo chư Phật, tức là ăn trước giờ ngọ, có nghĩa – theo truyền thống, người xuất gia và người tại gia phải ăn từ khoảng sáu giờ sáng cho đến trước mười hai giờ trưa. Đấy là thời giờ ăn thích hợp và cái đó gọi là trì trai. Còn ăn chay của chúng ta, theo chữ Hán gọi là tố thực, tức là thức ăn sạch. Ở đây là không liên quan đến giết hại mạng sống của chúng sinh, như thế chúng ta ăn chay là ăn các thứ rau củ quả, còn ăn mặn chính là ăn những thứ liên quan đến sinh mạng của chúng sinh, gọi là ăn mặn. Nội dung bài này, ăn chay là đề cập đến chuyện ăn các thức ăn không liên quan đến sinh mạng của chúng sinh. Trong Kinh, Đức Phật dạy chúng ta sống được là nhờ vào thức ăn, sống được là nhờ vào hơi thở, sống được là phải nhờ vào không khí, địa thủy và phong là bốn yếu tố này là những yếu tố cần thiết. Trong Phật có chia làm bốn loại thức ăn, một là loại thức ăn để nuôi dưỡng cơ thể vật chất này con người chúng ta- có vật chất và tinh thần. Vật chất thì cũng phải có thức ăn của vật chất, cho nên thân thể của chúng ta gồm có tứ đại là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại- thức ăn của chúng ta cũng phải gồm có bốn thứ địa thủy hỏa phong. Rau, củ, quả đều sống từ đất và trong bản thân có tính chất của đất, cho nên là thuộc về địa đại. Các loại thức ăn được nuôi dưỡng và tưới tẩm bằng nước cho nên có thủy đại. Có không khí thuộc về phong đại. Có ánh sáng mặt trời- thuộc về hỏa đại. Khi chúng ta đun nấu lên thì nó cũng phải có địa, thủy, hỏa, phong như thế- thức ăn đấy nuôi dưỡng thân tứ đại – địa, thủy, hỏa, phong của chúng ta. Chúng ta sử dụng các loại thức ăn tức có nguồn gốc thực vật được gọi là ăn chay.
Đức Phật nói là có ba loại thức ăn. Thức ăn mà chúng ta ăn bằng nhai nuốt gọi là thức ăn điạ, thủy, hỏa phong- trong kinh đức Phật gọi đó là đoàn thực. Ăn bằng nhai và nuốt là đoàn thực. Tinh thần của chúng ta thường dùng ba loại thức ăn, tư tưởng, đầu óc của chúng ta, suy nghĩ hành động của chúng ta được nuôi dưỡng bằng ba loại thức ăn.
Thứ nhất là xúc thực, xúc là tiếp xúc, mắt phải tiếp xúc với sắc – màu sắc là thức ăn của con mắt. Không phải củ cải, cơm gạo mới là thức ăn đâu, tất cả mọi thứ màu sắc thì là thức ăn của con mắt. Mọi âm thanh là thức ăn của tai, mọi thứ mùi hương là thức ăn của mũi mọi thứ vị thì là thức ăn của lưỡi. Sắc thanh, hương, vị, xúc, mọi thứ chạm, xúc nấy đều là thức ăn được gọi là xúc thực, nghĩa là ăn bằng sự tiếp xúc. Khi thân thể chúng ta chạm xúc vào nhau, cái đó cũng thuộc xúc thực, khi thân thể chúng ta chạm xúc vào các đồ vật để biết được vật đó là cứng hay mềm, nóng hay lạnh cũng thuộc xúc thực, mắt chúng ta tiếp xúc với với các cảnh vật để nhận biết ra người này, người kia, sự vật nọ vật kia thì đó đều là thức ăn của mắt, mọi thứ âm thanh là thức ăn của tai. Thức ăn của tinh thần, sở dĩ do sự tiếp xúc mới tạo ra được nhận thức, tức thuộc nhãn thức, nhị thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, nó tạo ra ý thức, thì được gọi là xúc thực.
Thứ hai là tư niệm thực, thức ăn cho tinh thần của chúng ta. Tư niệm là suy nghĩ, nếu đầu óc không có suy nghĩ thì không thể trở thành con người, không có sự tư duy thì chúng ta không thể trở thành một loài động vật linh thiêng nhất trong trời đất. Cho nên một loại thức ăn nữa là chúng ta gọi là tư duy, khi tư duy thì nó làm cho tinh thần chúng ta được phấn chấn, làm cho chúng ta trở nên có hiểu biết, phân tích chuyện nọ, hiểu biết việc kia là do có tư duy đó là tư niệm thực. Nuôi dưỡng tinh thần là bằng thức ăn này.
Thức ăn thứ ba là thức thực, tức là hoạt động của ý thức, hoạt động của sự nhận thức. Ý thức của chúng ta có tác dụng sao chép các hình ảnh, ghi vào trong tâm thức, lưu giữ ở trong tâm rồi chuyển giao hạt giống đó từ đời này sang kiếp khác thì đó là sự vận hành của thức. Như thế, chúng ta có bốn loại thức ăn là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực. Vậy, nói về ăn chay chúng ta đang đề cập đến đoàn thực, tức là ăn bằng miệng thôi và ăn các cái thứ rau củ quả thôi. Ăn chay thì kể cả tâm thức cũng phải chay, tâm thanh tịnh mới là trai giới. Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi của chúng ta không chay, không có trai giới thì vẫn là phạm tội, tạo tội. Cho nên người ta bảo mắt vẫn trộm cắp, tai vẫn nghe trộm, mắt nhìn trộm thì con mắt không thanh tịnh và đó không phải là trai giới. Ăn chay là phải chay từ thân đến tâm, chứ không chỉ có ăn bằng các loại rau, đậu, củ, quả. Nhiều bậc tổ sư, các vị tu thiền có nói – nếu ăn chay mà thành Phật thì con trâu, con bò thành Phật từ lâu rồi, bởi lẽ con trâu con bò nó từ lúc nó đẻ ra đến cả đời chỉ có ăn cỏ. Chúng ta không ai ăn chay từ những bụng mẹ cả, nhưng con trâu ăn chay từng trong bụng mẹ, con bò cũng vậy không có ăn thịt, nhưng mà làm sao thành Phật được. Nam truyền cho rằng người ta vẫn có thể ăn tam tịnh nhục được, theo truyền thống của Nam truyền- đi khất thực- tùy thí đắc thụ, và Phật tử, tín đồ người ta cúng cho cái gì thì ăn cái đó. Đức Phật nói phải ăn tam tịnh nhục, tức là không nghe thấy tiếng nó kêu khi nó chết, không nhìn thấy nó khi nó chết, và thứ ba là không nghi người ta giết nó vì mình. Ba trường hợp, thịt được gọi là thịt thanh tịnh, gọi là tố thực -vẫn là thức ăn chay. Cho nên nói các sư Nam truyền ăn mặn là không phải, cái đó đều gọi là tố thực- thức ăn thanh tịnh. Bởi vì cái đó Đức Phật gọi là tịnh nhục, tức là thịt trong sạch. Thịt sạch bây giờ theo yêu cầu còn thêm một điều kiện nữa tức là không nhiễm độc, không có các hóa chất, thì cái đó được gọi là tịnh thực. Trở thành Phật là ở trong tâm chúng ta còn đối với các loại thức ăn chúng ta phải biết kiểm soát nó để nuôi dưỡng được tinh thần từ bi và trí tuệ,. Ăn trước hết là để duy trì mạng sống, tức là các cái thức ăn vật chất để nuôi dưỡng cái thân vật chất này, nhưng vật chất đó là phải là vật chất trong sạch, để có cái thân trong sạch chúng ta còn nuôi dưỡng tâm hồn của chúng ta bằng xúc thực, tư niệm thực, thức thực cũng phải là bằng tinh thần của Phật pháp thanh tịnh thì tâm chúng ta trở nên thanh tịnh. Như thế chúng ta có cả thức ăn về thân, thức ăn về tâm, và phải nuôi dưỡng thân tâm bằng thức ăn mà gọi là ăn chay thì mới có khả năng giúp cho chúng ta tu tập, đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Chúng ta vào nội dung chính của bài này, xin mời các vị đọc.
Kinh văn:
B. CHÁNH ÐỀ
I. ÐỊNH NGHĨA
Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, biết tham sống sợ chết như người.
II. LÝ DO ĂN CHAY
1. Vì lòng từ bi và bình đẳng
Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài A-Nan hỏi Phật rằng:
– Bạch Phật, tại sao trước kia, Phật cho các Ðệ tử ăn ngũ tịnh nhục (Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: a) Thịt ăn mà không thấy người giết. b) Thịt ăn mà mình không nghe tiếng của con vật bị giết kêu. c) Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình ăn. d) Thịt con thú tự chết. đ) Thịt con thú khác ăn còn dư), mà nay Ngài lại cấm tuyệt ăn thịt cá?
Phật trả lời Ngài A-Nan:
– Vì trình độ các ông trong buổi sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp Ðại thừa, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp Tiểu thừa, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh thọ được giáo pháp Ðại thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn các thứ ấy, thì còn phạm giới sát sinh, nếu không trực tiếp sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi bình đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được.
Lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn chay là cốt yếu để nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.
Thật thế, Phật tử là người đã theo đạo từ bi, thì không lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.
Nếu chúng ta vì muốn ăn cho khoái khẩu, sướng bụng, mà nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu la thảm thiết của những con vật đang giãy giụa trên tấm thớt, trên bàn thịt, thì sao được gọi là Phật tử.
Nếu không có một lòng thương xót trước những cảnh giết chóc như thế, thì hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo khô, cằn cỗi, và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của chúng ta trở thành vô ích.
Đạo Phật là đạo từ bi mà cũng là đạo bình đẳng. Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như nhau”. Vậy thì người Phật tử dưới tầm con mắt của mình, không nên thấy người và vật khác nhau, mà chỉ thấy đồng một tri giác bình đẳng, ẩn trong thân hình sai biệt. Nói rằng: “Vật dưỡng nhơn” là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ và ngạo mạn của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng cho người ta thẳng tay giết hại sinh vật, và tạo ra một tình trạng bất bình đẳng, thì không bao giờ cõi đời có thể yên ổn, hòa bình được.
2. Vì muốn tránh quả báo luân hồi
Phật dạy: “Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là sinh tử luân hồi mãi trong sáu đường”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hễ giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được.” Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát, Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.
3. Vì hợp vệ sinh
Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đã nói rằng: “Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm”. Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: “Trong các thứ thịt, có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người”. Bằng chứng cụ thể là rau cải để xuống nước thì nổi, thịt cá lại chìm; rau cải để lâu ngày thì héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc, khó tiêu. Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v…, nếu chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.
Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội “Tổ thực chủ nghĩa”, ở Pháp, Ðức, Anh, Mỹ đều có “Thảo mộc thực hội”.
Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng: “Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu.”
Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng: “Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật.”
Giảng giải chi tiết:
Về nội dung chính, định nghĩa cũng đã nói rõ rồi, ăn chay là ăn các loại thảo mộc và không ăn các cái loại động vật có tình thức, chỉ ăn những các loại rau củ quả cho cuộc sống. Lý do cần ăn chay thì ở đây nêu ra ba lý do căn bản. Một là vì lòng từ bi và tôn trọng Phật tính bình đẳng, xác định là như vậy. Bởi vì chúng ta học theo Đạo Phật thì Đức Phật nói ta thương tất cả chúng sinh, chúng sinh không chỉ riêng cho loài người mà trên từ chư Phật, dưới cho đến các loài côn trùng nhỏ bé, dưới chư Phật trở xuống đều là chúng sinh cả. Chúng sinh có hai loại hữu tình chúng sinh và vô tình chúng sinh. Chúng là các duyên, chữ chúng sinh là tòng chúng duyên sinh, tức là do nhiều duyên hợp lại mà sinh ra thì được gọi là chúng sinh. Con người chúng ta, các loài động vật cũng là do nhiều nhân duyên hợp lại và sinh ra, phù hợp với giáo lý duyên khởi mà Đức Phật đã chỉ dạy. Cây lúa, cây rau cũng do nhiều duyên mới sinh ra cho nên cũng là chúng sinh, nhưng vì nó không có hoạt động của tâm thức hoặc hoạt động tâm thức của nó rất yếu, tâm thức chúng là thần kinh thực vật, tức là rất chậm lụt. Con người chúng ta bị chết thần kinh động vật trở thành thần kinh thực vật, sống giống như là gỗ đá gọi là thần kinh thực vật. Tức là trong người chúng ta cũng có hai loại thần kinh, một loại thần kinh động vật, hai là thần kinh thực vật. Con vật là động vật có thức tình, có thần kinh thực vật chiếm thiểu số, thần kinh động vật chiếm đa số. Phạm vi của chúng ta bàn đến là -hết thảy chúng sinh đều có Phật tính. Vậy chúng sinh hữu tình có Phật tính thì chúng sinh vô tình có Phật tính không? Vô tình cũng có. Trong con người, loài động vật gọi đó là Phật tính, nhưng trong các loài vô tình như cỏ, cây, hoa, lá, đất đai, sông núi thì Phật gọi đó là pháp tính. Trong bài phát nguyện chúng ta nguyện “tình giữ vô tình, đồng viên chủng chí” – loài hữu tình và loài vô tình đều thành Phật, lòng từ bi chúng ta học Phật là học từ bi thương xót muôn loài. Đức Phật nói – ta coi tất cả chúng sinh như La Hầu La không khác tức là giống như con đẻ vậy. Học Phật- coi tất cả chúng sinh như là con của mình thì có ai nỡ ăn thịt con mình không. Vì thế trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói từ nay trở đi cấm không được ăn các thịt động vật, dẫu rằng có ăn các loài rau củ cải thì cũng tưởng như ăn thịt con mình như vậy kể cả ăn rau, ăn chay cũng giống như ăn thịt con mình – bấy giờ chúng ta mới đủ tâm từ bi. Đấy là khía cạnh thứ nhất của từ bi, ngoài ra còn có khía cạnh thứ hai chính là tôn trọng Phật tính bình đẳng. Tất cả các chúng sinh đều có Phật tính, chúng ta giết hại chúng sinh để ăn thịt thì cũng chính là giết hại một vị Phật trong tương lai. Đối với người tu Tịnh Độ thì trong mười hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền- nhất là lễ kính Chư Phật, nhưng mà chúng ta nhầm tưởng lễ kính chư Phật chỉ là lễ các Đức Phật đã thành chứ còn chư Phật đang thành và chư Phật sẽ thành. Phật sẽ thành, chính là chúng sinh. Đức Phật nói ta là Phật đã thành, mà chúng sinh là Phật sẽ thành. Phật tính bình đẳng cho nên không được phép giết hại và ăn thịt chúng sinh. Đây là cái trong nhóm lý do thứ nhất. Lý do thứ hai ở đây là tránh quả báo luân hồi, vì sát sinh và ăn thịt thì sẽ dẫn đến việc đoạt mạng chúng sinh và đoạt mạng chúng sinh thì phải trả quả báo bằng mạng sống của chính mình. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói, nếu còn có sát sinh là còn có sinh tử luân hồi. Đối với Phật tử tại gia trong năm giới, giới đầu tiên quy định là không được giết hại chúng sinh, không nói là không được ăn thịt, nói như thế là đúng. Nhưng mà quả báo ý vẫn phải gánh chịu, bởi vì như trong Kinh Địa Tạng có nói, dù rằng không có tự tay mình giết, không bảo người khác giết, không có thấy người khác giết mà sinh vui mừng, nhưng chúng ta bỏ tiền ra mua thì thuộc vào trong tội nhóm tội thứ ba- tức là tùy hỷ sát. Trong giới sát thì là nhược tự sát, nhược giáo tha sát, kiến sát tùy hỷ. Hoặc tự mình giết, hoặc bảo người khác giết hoặc thấy người khác giết mà sinh tâm vui mừng, chúng ta bỏ tiền ra mua thịt để ăn – rơi vào cái nhóm tội là bảo người khác giết. Nếu mà chúng ta không mua, thì không ai giết để bán cả. Vì có người mua cho nên mới có người giết để bán. Vì thế không chỉ người giết bán có tội, người ta có tội sát sinh nhưng chúng ta bỏ tiền ra mua là phạm tội giáo sát. Như thế chúng ta gánh quả báo gián tiếp của việc sát sinh. Thứ ba là tùy hỷ, khi bỏ tiền ra mua mà tâm hoan hỉ, nhìn thấy miếng thịt không thấy xót như cắt thịt của mình đâu, chỉ miếng này chỉ miếng kia, còn ra chợ chọn con này tươi, con kia ngon, con này béo, con kia gầy, rồi chê bai, chỉ tay rồi bảo người ta giết con này giết cho con kia – đó là giáo sát. Khi ăn sinh tâm vui mừng, hoan hỉ đấy tức là tùy hỷ sát. Và như thế thì đừng cho rằng bản thân không có sự trực tiếp giết là không có tội, người khác giết bằng cách bỏ tiền ra mua là thuê người giết và khi ăn sinh tâm vui mừng vẫn thành hai tội là giáo sát và kiến sát tùy hỉ. Còn có nghiệp sát thì nhất định còn phải sinh tử luân hồi. Cho nên, để tránh quả báo xấu ác ở đời này cũng như tránh quả báo xấu ác ở kiếp sau, phải chấm dứt sát sinh và đồng thời cũng là chấm dứt ăn thịt, tức là ăn mặn, ăn các loài động vật. Bởi vì còn có có sát sinh thì còn có sinh tử, còn có luân hồi. Chư Tổ có nói- nhất thiết chúng sinh vô nghiệp sát hà xa thế giới tức đao binh. Tức là hết thảy chúng sinh không còn sát nghiệp nữa thì tất cả thế giới đều chấm dứt chiến tranh, chiến tranh xảy ra cũng là do sát nghiệp, đã có chiến tranh là sát nghiệp, xương chất thành đống, vì thế người xưa có nói một câu là nhất tướng công thành vạn cốt khô, một vị tướng thành công có thể đeo huân chương đầy ngực ở chiến trường trở về, thì cũng đã có hàng vạn người chết phơi thây ngoài chiến trường. Dù cho chiến tranh chính nghĩa hay chiến tranh phi nghĩa thì số người chết vì bom rơi đạn lạc, chết oan, chết khuất không thể kể hết được. Từ đó mà chúng ta nhìn thấy nghiệp của sát sinh, nghiệp của hại mạng. Chúng ta tu học Phật để giải pháp sinh tử luân hồi, cho nên muốn giải thoát sinh tử luân hồi thì phải chấm dứt nhân cái duyên của việc sát sinh liên quan đến ăn thịt. Lý do thứ ba là hợp vệ sinh hay là chúng ta gọi là để phòng trừ các bệnh nguy hiểm, bởi vì trong Kinh Đức Phật nói- bệnh tòng khẩu nhập họa tòng ngôn xuất- bệnh từ miệng mà vào – cho nên tám chín mươi phần trăm bệnh do ăn uống mà sinh ra. Ngày nay thì chúng ta biết rằng- kể cả ăn chay mà thực phẩm không sạch thì cũng vẫn có nguồn để gây bệnh. Các loại động vật nuôi không được được tốt, thì vẫn dư lượng các chất độc hại. Cho nên ngày nay, do ăn thịt nhiều nên nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư, mỡ máu, huyết áp. Cách đây hai- ba mươi năm trước, ba- bốn chục năm trước ăn thịt rất ít, các vị nào mà cỡ tuổi như chúng tôi hoặc hơn nhiều nữa biết rõ lúc bấy giờ có khi cả tháng không có thịt, cá. Nông dân nghèo, cán bộ, công nhân, viên chức có tem phiếu mỗi tháng chỉ được một chút thôi, thì lúc bấy giờ bệnh tật rất ít. Nhưng bây giờ là hầu như người ta ăn thịt hàng ngày, do ăn thịt hàng ngày cho nên bệnh thì rất nhiều. Trong Kinh, Đức Phật có phân tích một lý do thế – Không có con vật nào hoan hỉ tự nguyện chết để cho chúng ta ăn thịt mà đều bị chết trong tình trạng lực bất tòng tâm bị lôi vào trong lò mổ, bị giết hại cho nên các con vật chết trong tình trạng sân giận và oán hận. Khi bị chết trong tinh thần sân giận và oán giận như thế thì hai cái độc tố sân và si ngấm vào trong từng thớ thịt của con vật ấy, dù chúng ta có đun thế nào, có nấu thế nào thì độc tố ấy không thể loại bỏ được, và khi chúng ta ăn thịt vào thì chúng ta trực tiếp ăn độc tố tham sân si đó của con vật bị chết. Khi nó kết oán, kết hận vào trong thân thể của chúng ta, độc tố đó không loại thải ra được, tích tụ lâu ngày sẽ kết thành bệnh. Yếu tố này ngày nay khoa học về y học người ta đã chứng minh một cách rõ ràng. Trước đây có một câu chuyện mà chúng tôi cũng xin nói lại- có một người người mẹ vì lúc tức giận cãi nhau với chồng khi đang cho con bú mới có hai ba tháng. Đứa con bú sữa của người mẹ trong khi sân giận như thế bị ngộ độc mà chết. Bản thân con người ta khi giận giữ phát sinh ra độc tố và độc tố nó còn nhiễm vào trong giòng sữa mà khiến đứa trẻ bú sữa ngộ độc mà chết huống chi các con vật mà khi chết trong cái tình trạng sân hận. Do đó, khi mà ăn chay vì ba cái lý do- vì lòng từ bi và bình đẳng; vì tránh được quả báo xấu ác ở đời này và kiếp sau; lý do thứ ba nữa là hợp vệ sinh, ít bệnh và tăng cường được sức khỏe như trên đã phân tích. Ăn chay không thiếu dinh dưỡng bởi vì tất cả trong các loại rau củ quả đều có đầy đủ các chất dinh dưỡng. Các nhà khoa học y học người ta còn phân tích một yếu tố sâu hơn – con người không phải thuộc loài động vật ăn thịt, mà chúng ta thuộc loại động vật ăn chay, bởi vì nếu là động vật ăn thịt sẽ ăn được thịt sống và có thể tiêu hóa sống được các loại thịt. Điều đó liên quan đến hệ thống dạ dày và răng nanh. chúng ta thuộc loại động vật cao cấp, nhưng không thuộc nhóm động vật ăn thịt. Do đó việc ăn chay là hoàn toàn phù hợp với khoa học, phù hợp với tinh thần từ bi trí tuệ của Đức Phật và phù hợp với phương pháp mà chúng ta tụ tập.
Chúng ta sang phần thứ III là cách thức để chúng ta ăn chay.
Kinh văn:
III. CÁCH THỨC ĂN CHAY
1. Chương trình ăn chay
Mặc dù sự ăn chay đối với người Phật tử là một điều cần thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được lợi ích thiết thực, cần phải có phương pháp, và áp dụng một cách tuần tự theo căn cơ và sở nguyện của mình. Trước tiên, không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ hẳn ngay tập quán ăn mặn của mình để ăn chay. Vì thế, trong đạo có chia làm hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường.
a) Ăn chay kỳ. Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn nhất định trong mỗi tháng hay mỗi năm:
– Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi tháng vào ngày mồng một và rằm âm lịch.
– Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám, rằm và hăm ba.
– Lục trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng là: mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, hăm ba, hăm chín hay ba mươi (tùy tháng thiếu hay đủ).
– Thập trai: Ăn 10 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi (nếu tháng thiếu thì 27, 28, 29).
– Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào tháng giêng hay tháng bảy.
– Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng chay: Tháng giêng, tháng bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp trong ba tháng.
Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp một phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích, thì nên lần đến ăn chay trường.
b) Ăn chay trường. Ăn chay trường hay trường trai là ăn toàn chay luôn trong mỗi ngày, không gián đoạn cho đến hết đời.
Nếu mỗi ngày, phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa, thì gọi là ngọ trai.
2. Phương pháp thực hành
a) Chọn lựa thay đổi thức ăn. Ðể ăn cho được lâu dài và không ngán, chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải bắp, khoai tây, nếp lức v.v…và những món ăn cũng phải thay đổi luôn.
Vậy trong một bữa ăn, cần phải ăn những món gì để bữa ăn có đầy đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài bữa ăn kiểu mẫu:
– Trái cây cùng ăn với cơm hay bắp, bột mì và rau, cải, đậu phụng rang.
– Sữa tươi cùng ăn với trái cây ngọt và cơm, bắp hay bột mì.
Các món ăn chính nói trên là cần thiết, nhưng cũng cần thêm gia vị như hột cải cay, tiêu, ớt, giấm v.v…để giúp bộ máy tiêu hóa làm việc dễ dàng. Nhưng nếu dùng gia vị quá nhiều thành ra có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa nóng, sinh bệnh hay làm kích thích cơ thể.
b) Cách nấu. Thức ăn là cần thiết nhưng cách nấu cũng quan trọng; chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đã ăn chay thì nấu thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm đến. Nếu thức ăn bổ mà không biết cách nấu, thì cũng làm cho nó hết bổ, và có khi làm hại bộ máy tiêu hóa nữa. Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn:
– Không nên chiên xào nhiều quá, vì sinh tố B và C sẽ bị dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho bao tử mệt.
– Nên ăn đồ nướng, nhất là nướng không có thoa dầu.
– Khi nấu hay luộc phải nên đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loãng. Và nước luộc ấy rất tốt, không nên đổ đi, vì nó chứa rất nhiêu chất bổ và sinh tố.
c) Giảm thịt cá dần dần trong những ngày ăn mặn. Ðối với những người ăn chay kỳ thì khi ăn mặn, nên mua những vật người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số lượng thịt cá, ăn nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không tượng con.
Khi đã tinh tấn về mặt tinh thần, không nên ăn trứng gà, trứng vịt, vì trứng cũng là một sinh vật sắp nảy nở.
3. Những điều cần tránh
a) Không nên kiêu mạn. Người có phúc duyên ăn chay được dễ dàng, không nên sinh lòng kiêu mạn, tự cho mình là hơn người, và khinh người ăn mặn. Làm như thế đã sinh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm đức của mình nữa.
b) Không nên háo danh. Có người mới bước vô đường đạo, đã ăn trường trai ngay, cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do lòng háo danh mà ra; hành động này không có lợi cho sự tu hành mà lại còn có hại: khi không còn ai khen ngợi nữa, thì không thấy hứng thú để tiếp tục ăn chay nữa.
c) Không nên ép xác. Có người tưởng lầm rằng ăn chay là để hành hạ thân xác, nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ròng rã tương rau, muối sả…từ năm này sang năm khác. Ăn như thế thì sẽ hao mòn thân xác và chết yểu trước khi thành đạo.
d) Không nên giả mặn. Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo của mình bằng cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn, hay làm ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ hủ cau, củ hủ dừa kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt gà xé phay; bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt tên là thịt bò lụi v.v….
Như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn rau dưa, mà lòng tưởng nhớ đến thịt cá, làm trò cười cho thế gian.
đ) Không được quên ngày chay. Không nên khinh thường quên những ngày chay mà mình đã phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như đi lỡ đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có sẵn thức ăn chay.
e) Không nên dùng ngũ vị tân. Ngũ vị tân là: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ không nên dùng, vì các thứ này đã hôi, lại có nhiều chất kích thích lòng dục vọng.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây nói cách thức ăn chay, đối với phật tử tại gia cũng nên đặt cho mình ăn chay trước hết là ăn chay kỳ, rồi dần chúng ta phải tiến đến có thể ăn chay trường. Thực ra việc ăn chay của chúng ta thực hành được cũng không dễ dàng bởi vì trong gia đình nếu mình chúng ta ăn chay trong khi cả nhà vẫn ăn thịt cá là điều khó khăn, chúng ta sẽ phải nấu riêng, mà đã ăn chay phải nấu riêng thì từ mâm, bát, đĩa đều phải dùng riêng hết. Như thế người trong trong nhà mà không hiểu, không đồng cảm sẽ dẫn đến có những vấn đề khúc mắc trong gia đình. Cho nên những nội dung ở trong sách nói khá kỹ rồi, ở đây tôi đặt những vấn đề thực tiễn để làm sao chúng ta phải giải quyết. Xưa kia Chư Tổ nói chay hay mặn ở tâm chúng ta, chứ không phải ở thức ăn chay hay mặn. Nếu chúng ta cứ cố gượng ép để chúng ta ăn chay mà không giải quyết được các vấn đề trong gia đình, dẫn đến mâu thuẫn trong gia đình, cố chấp trở thành đổ vỡ sẽ trở thành tội của thế gian. Người ta cho rằng gia đình khi chưa theo Phật thì yên ổn, đến khi học Phật thì lủng củng, tức tan nát gia đình thì điều đó chúng ta phải hết sức thận trọng. Nếu ăn chay tốt cho mình nhưng phải tốt cho cả gia đình. Ngày xưa thì hơi khó, nhưng bây giờ xu hướng xã hội không riêng gì những những người học Phật, đệ tử của Phật mới ăn chay mà ngoài xã hội người cũng ăn chay rất nhiều. Các nước người ta có phong trào ăn chay không có liên quan gì đến việc có theo Đạo Phật hay không theo Đạo Phật. Đối với chúng ta là đệ tử Phật phải xác định khi ăn chay phải phát nguyện, ban đầu chúng ta ăn hai ngày rồi dần dần có thể bốn ngày, có thể sáu ngày hoặc có thể tám ngày. Nhưng trong những ngày chúng ta phát nguyện ăn chay thì Phật tử tại gia nên giữ bát quan trai luôn sẽ có tác dụng đắc lực. Nếu mà chúng ta chỉ ăn chay không mà không giữ trai ngọ, tức là giữ bát quan trai thì việc ăn chay có hiệu quả và công đức không có lớn. Khi vừa ăn chay, chúng ta lại vừa giữ giới điều đó gọi là trai giới thanh tịnh. Trong Kinh Xuất gia công đức có nói – thụ bát quan trai giữ giới một ngày một đêm – có đủ công đức sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên rồi. Tức là giữ đủ tám giới trọn vẹn một ngày một đêm thanh tịnh, ăn chay đã có đủ công đức sinh trong cõi trời. Do đó việc ăn chay mà trì trai tức là không được ăn quá ngọ. Chứ còn không giữ được mà chỉ có giữ ăn chay thuần túy thôi, thì công đức không lớn, công đức có lớn hay không là chúng ta giữ được bát quan trai. Trong bát quan trai, giới quan trọng nhất chính là không được ăn quá giờ ngọ, mà thực ra phương pháp này một tháng áp dụng một, hai lần không ảnh hưởng gì sức khỏe. Nguyên tắc một tháng chúng ta có thể đoạn thực- nhịn ăn một ngày hoặc nhịn ăn tới hai ngày một tháng nên, nhịn ăn cả ngày để thanh lọc cơ thể và làm sạch các độc tố nó còn tồn đọng lại trong thân chúng ta. Và làm sao chúng ta ăn chay với tâm phải thanh tịnh, tránh những phương pháp mà như ở trên nói là để cầu danh hoặc kiêu mạn hoặc ép xác hoặc là chay giả mặn, tất cả những chuyện đó đều là không phù hợp với tinh thần ăn chay của người Phật tử. Người tại gia thì có thể ăn chay bằng cách chế biến nhiều thứ, thế rồi các món ăn gọi là ăn thực dưỡng, chúng ta học Phật thì không cần thiết với những cái vấn đề đó, làm sao để khi ăn tâm chúng ta được an lạc, tâm chúng ta được nhẹ nhàng. Ở trên đã nói, thực ra người ăn chay thân thể cũng nhẹ nhàng hơn nhiều, và khi thân nhẹ thì tâm cũng nhẹ nhàng. Người ăn chay thì mồ hôi cũng không đến nỗi nặng mùi như người ăn mặn. Các cụ ngày xưa cô nói, có thể hơi tục một chút, kể cả đi vệ sinh thì mùi cũng không đến nỗi khó chịu như người ăn mặn. Ai cũng có thể kiểm chứng được chuyện này ngay lập tức, như thế thì chúng ta biết được là ăn chay làm cho thân tâm khinh an, thân tâm khinh an đây chính là phương tiện để trợ giúp cho chúng ta đạt được cận định. Cận định giúp chúng ta ngồi thiền dễ có thể nhập định, khi chúng ta niệm Phật có thể dễ dàng đạt được nhất tâm. Tức là thân tâm nhẹ rồi thì chúng ta thu tập vào các Pháp môn nó rất dễ. Khi thân tâm của chúng ta không nhẹ, không được khinh an, thì chúng ta tu tập rất khó. Cho nên khó thành công là chính ở chỗ này. Vì vậy cách chế biến các loại thức ăn làm sao để cho chúng ta cân đối về mặt dinh dưỡng, phù hợp. Ngày nay có rất nhiều loại thức ăn chay chế biến và làm sẵn nhưng mà nếu không cẩn thận mà họ dùng các cái chất bảo quản thì hoàn toàn không tốt chúng ta, nên tự nấu giảm bớt các cái món xào, món chiên, món rán, tăng cường các món luộc, ít dầu mỡ và nhiều chất xơ có đủ các chất dinh dưỡng như là chúng ta dùng đậu phụ hoặc là các loại ngũ cốc thì vẫn có thể đầy đủ dinh dưỡng để giúp cho chúng ta có được sức khỏe bình thường không có gì trở ngại. Kể cả những trường hợp nói rằng là trẻ em còn đang đi học, phụ nữ mang thai, rồi những người phải làm công việc nặng vẫn có thể ăn chay và ăn chay trường, vẫn có thể đủ sức khỏe, không có ảnh hưởng gì đến những việc đó. Ở đây, một khi đã phát nguyện ăn chay thì phải cố gắng giữ gìn, còn những ngày không ăn chay, vẫn ăn mặn thì phải tuyệt đối là giữ giới không được giết hại chúng sinh. Các loại thực phẩm chúng ta mua phải là thực phẩm làm sẵn và không được sai người, tức là không được ra chợ mà chỉ tay bảo là giết con này, giết con kia để mua. Thực ra thì ở Việt Nam chúng ta không quen dùng các đồ đông lạnh. Theo nghiên cứu khoa học, theo tinh thần của Phật học nếu chúng ta có ăn mặn, ăn thịt cá thì tốt nhất là nên ăn các đồ người ta gọi là đồ đông lạnh, nó có mấy lý do. Chúng ta thì theo cái quan niệm là cứ thường nói là phải mua thịt tươi nó mới ngon, nhưng mà xét về ý nghĩa nào đó thì thịt còn tươi thì thần kinh của con vật bị chết, các cái tế bào của nó vẫn chưa chết hoàn toàn. Mặc dù chúng ta gọi là con vật nó đã chết, nhưng miếng thịt đó vẫn còn có hoạt động, thần kinh vẫn còn hoạt động của các tế bào và phải tới tám đến mười tiếng đồng hồ sau hệ thần kinh thực vật, các hệ thần kinh động vật rồi các cái tế bào ở trong miếng thịt đó nó mới chấm dứt hoạt động, Nếu miếng thịt đã để đến bảy tám tiếng mà không cất đông thì nó sẽ ôi rồi, tức là nó sẽ thiu rồi. Chính vì vậy, nước ngoài, khoa học hiện đại người ta cho rằng thịt là phải dùng để cấp đông, tức là sau khi người ta để miếng thịt nó nguội rồi người ta phải cho vào cấp đông, vào lúc bấy giờ cái thịt mà cấp đông rồi thì nó giống như rau không khác. Người ta kiểm tra các hoạt động của các loại tế bào không sinh sản nữa, các loại vi sinh vật ở trong đó không hoạt động nữa, và đặc biệt một điều nữa là thần kinh ở trong các cái miếng thịt ấy là nó chết hoàn toàn. Cho nên người sau khi mà chết phải để tám đến mười tiếng mới được khâm liệm, điều nó có liên quan đến các thần kinh, mặc dù thần thức nó đã ra khỏi thân, nhưng mà thần kinh thực vật vẫn hoạt động, cho nên là chúng tôi đã từng nhìn thấy có những con vật mà mặc dù nó chết rồi, nhưng mà khi mà người ta cắt ra các cái miếng thịt đấy nó vẫn còn có co giãn, mà nó còn giãy giụa đấy, tức là mức độ hoạt động của các loại thần kinh và tế bào trong các miếng thịt ấy nó vẫn còn nguyên, và như thế thì rõ ràng là nó vẫn còn có sự sống. Khi bỏ luôn vào để nấu thì cũng giống như con vật đang còn sống không có khác gì cả. Cho nên những ngày không ăn chay, phải ăn thịt, tức là vẫn phải ăn mặn cùng với gia đình thì nên mua các loại thịt đã làm sẵn, tốt nhất là cấp đông. Có một điều rất hay ví dụ như Hồi giáo, người ta có ăn thịt, nhưng người ta chỉ ăn một số loại thịt chứ không ăn tất cả các loại thịt. Ví dụ như người Ấn Độ mà thịt bò là không bao giờ người ta ăn, thịt đại gia súc là không ăn, thịt trâu thịt bò, thịt ngựa, thịt chó các cái loại đó là hoàn toàn không ăn, người ta chỉ có ăn thịt lợn thôi ví dụ như thế. Người Hồi giáo ăn con vật phải được giết bằng những người là theo đạo bởi vì sao, bởi vì tôi đã chứng kiến cách thức họ làm, họ nói là khi làm những chuyện đó là họ phải tụng kinh cầu nguyện cho con vật. Thứ hai nữa là khi bị người ta giết thịt thì người ta nói rằng là phải làm thế nào cho con vật chết một cách nhanh nhất, tức là cái dao rất sắc phải làm cho nó chết được ngay và khiến cho con vật chết mà nó không cảm thấy đau, họ giải thích như vậy. Trong suốt thời gian i làm thịt như vậy, họ tắm rửa rồi họ cầu nguyệt cho con vật đó để được chết trong tình trạng yên lành, cái miếng thịt đó họ mới có thể ăn được. Còn nếu không làm theo cách đó là không ăn. Các đoàn nước ngoài thuộc các nước theo đạo Hồi hoặc các đoàn thể thao sang Việt Nam là họ thường phải mang thực phẩm của họ, chứ họ không bao giờ họ ăn đồ của chúng ta, không bao giờ mua siêu thị để ăn và cái siêu thị đó phải do người Hồi giáo cung cấp họ mới có thể ăn. Đây là nói chuyện ngoài lề, mặc dù đó là Tôn giáo nhưng mà họ cũng có ăn thịt, nhưng cách xử lý để ăn mang tinh thần đạo. Mặc dù bắt buộc phải ăn nhưng họ đã xử lý theo cách đạo của họ, tức là phải cầu nguyện phải làm cho con vật chất không đau đớn, và phải để bao nhiêu thời gian họ mới có thể ăn được cái thịt đó. Các loại thịt để ăn thì phải làm như vậy mới có thể sử dụng được. Thứ hai nữa, khi ăn mặn ăn chay thì chúng ta phải kiêng cái đồ ngũ tân, là hành, tỏi, hẹ, kiệu và Việt Nam chúng ta thì không có nhưng mà gọi là hưng cừ, tức là các cái chất cay và nóng. Ăn vào làm cho người ta dễ phát sân và dễ phát khởi dâm tâm, cho nên các thực phẩm đó dù ăn chay ăn mặn đối với người phật tử chúng ta đều phải hạn chế. Một điều nữa để tránh tình trạng là ngày mai mình phải ăn chay thì hôm nay mình ăn mặn cố. Đó cũng là gọi là ăn chay gọi là cầu danh đấy, hoặc giả là hôm nay mình ăn chay rồi thì ăn chay ba bốn ngày rồi thì hết kì ăn chay phải ăn mặn, tức là mình phải mua thật nhiều thứ để mình ăn cho nó đã, cái đó gọi là ăn chay giả tạo, tốt nhất là đừng có ăn theo cái cách ấy. Chúng ta ăn với tâm bình thản và khi chúng ta ăn- cố gắng trên tinh thần từ bi, trí tuệ của của Phật. Đưa cái miếng thịt vào miệng mà ăn, Đức Phật nói giống như ăn thịt con mình, phải ứa nước mắt ra thì hẵng nuốt vào được, thì chỉ vài, ba lần là chúng ta tự bỏ được chuyện ăn thịt mà không ăn thịt nữa. Còn cảm thấy ăn rất ngon, rất khoái khẩu, thì chúng ta không bỏ được, dù chúng ta có ăn chay mà chế biến giả mặn, mùi thế nọ vị thế kia- khi ăn nó vẫn đánh thức tâm thức của chúng ta. Liên quan đến đồ ăn mặn còn có một lý do nữa, nếu mà chúng ta cứ quen ăn mặn nếu mà không may đến lúc lâm chung thấy người ta đang đun bếp mùi thức ăn nó bốc lên, thần thức lúc bấy giờ là theo cái thức ăn đó nó cuốn đi thì chắc chắn chúng ta sẽ đọa vào ma đói ở trong xó bếp, làm các cái loại ma đói để ngửi hơi miệng của kẻ khác, mùi thức ăn bốc lên từ nơi bếp, cái này là trong kinh Đức Phật có chỉ dạy như vậy. Chúng ta quen với mùi thức ăn như thế rồi nó kích thích khứu giác, kích thích vị giác và lúc bấy giờ mà chết trong cái tình trạng ngửi thấy mùi thức ăn trong nhà mình nấu hoặc xung quanh người ta nấu -thần thức ra khỏi thân đi theo mùi thức ăn đấy, bị hút vào trong đó, thì mười người- chín người sẽ thành ma đói. Vì vậy đối với thức ăn và vị của thức ăn phải hết sức lưu ý những chuyện này. Trong vấn đề ăn uống- trong bốn loại thức ăn thì Đức Phật có nói ví dụ thế này. Trong Kinh Thức Ăn, Đức Phật nói về bốn cái ví dụ về bốn loại thức ăn, khi ăn cơm hàng ngày giống như ăn thịt con mình, thì đức Phật nói một ví dụ thế này- hai vợ chồng và một đứa con đi qua khu vực sa mạc và cuối cùng hết thức ăn và hết cả nước uống, dẫn đến tình trạng gia đình có thể là sát chết giữa sa mạc, và hai vợ chồng bàn nhau giết đứa con của mình để lấy thịt ăn, nhằm duy trì mạng sống để tiếp tục lên đường, họ cho rằng nếu mà họ chết thì đứa con cũng sẽ chết, và thà rằng để nó chết để hai vợ chồng còn sống thì tương lai cũng còn có thể sinh ra những đứa con nữa. Và họ đã giết đứa con để lấy máu uống cho phải khát, lấy thịt ăn cho khỏi đói. Khi họ đưa miếng thịt của đứa con lên trên miệng ăn thì nước mắt trào ra không nuốt được và Đức Phật nói một ngày ăn hai, ba bữa cơm cũng giống như hai vợ chồng ăn thịt con mình không có khác. Chúng ta đang ăn thịt mình, đang ăn tuổi thọ của mình, đang ăn kiếp sống của mình và đang ăn cả công đức, công quả của chính mình. Vấn đề này ở trong Kinh Lăng Nghiêm nói- ngài A Nan hỏi Phật- tại sao trước kia Đức Phật cho ăn thịt mà bây giờ không cho, Đức Phật có nói – dù rằng là ăn rau, củ, quả cũng giống như ăn thịt con mình, thực ra, con này là sản phẩm mà chúng ta làm ra, tất cả hàng ngày chúng ta vẫn đang tự ăn thịt con mình. Chúng ta bỏ sức khỏe, bỏ trí tuệ, bỏ tất cả thời gian để kiếm tiền và đồng tiền đó là sản phẩm do chúng ta tạo nên, là con của chúng, tiền của tài sản chính là con của mình, chúng ta trồng ra rau, ra lúa cũng là con mình, và khi chúng ta ăn nó chính là chúng ta đang ăn thịt con mình, cũng chính là tự cắt thịt mình ra mà ăn. Hàng ngày chúng ta bỏ sức khỏe ra để đổi lấy đồng tiền, để đổi lấy cơm gạo xong chúng ta lại ăn vào, thì rõ ràng chúng ta đang cắt thịt mình để ăn có khác gì đâu, cũng là cắt thịt đứa con của mình. Tiền của, nhà cửa, tài sản sự nghiệp đều là con của mình hết, mà hàng ngày chúng ta vẫn đang thường ăn chính là ăn thịt con.
Chúng ta sang phần cuối cùng- lợi ích của việc ăn chay, xin các vị đọc.
Kinh văn:
IV. LỢI ÍCH CỦA SỰ ĂN CHAY
1. Phương diện cá nhân
Những lợi ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những lợi ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa.
a) Trong hiện tại, người ăn chay được hưởng lợi ích sau đây:
– Tiết kiệm được tài chánh, vì đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn mặn nhiều.
– Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, vì mướp, dưa, bầu bí, khoai… cắt rửa mau và ít tốn nước; và khi kho, luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi.
– Thân thể được mạnh khỏe; tinh thần được nhẹ nhàng, trong sạch; trí tuệ được minh mẫn dễ tu thiền quán.
b) Trong đời sau, không chịu quả báo giết hại, nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng. Nếu trở lại làm người, thì được trường thọ.
2. Phương diện xã hội, nhân loại, chúng sinh
Ăn chay không những có lợi ích cho cá nhân, mà còn cho xã hội, nhân loại, chúng sinh nữa. Nếu ai ai cũng ăn chay thì thế giới Ta-bà này làm gì có tiếng rên siết vì chết oan của loài vật và tiếng than thở, đau đớn của người vì nạn tương tàn, tương sát.
Một nhà bác học có nói: “Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu trong bữa ăn con người phải không có một chút máu hay một miếng thịt cá nào cả”.
Câu nói đầy đạo đức này cũng đồng một ý nghĩa với câu nói của cổ nhân:
“Nhất thế chúng sinh vô sát nghiệp,
Hà sầu thế giới động đao binh”.
(Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì thế giới có giặc giã).
Người ăn chay là một chiến sĩ của hòa bình. Thật vậy người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài là mình, mình là muôn loài, không giết hại sinh vật để thỏa mãn dục vọng, không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng loại để đạt mục đích lợi danh.
Nếu trong xã hội, ai ai cũng ăn chay, thì đâu có những chuyện gây gổ, đánh đập nhau, như chúng ta thường thấy hằng ngày.
Nếu trong một nước, ai ai cũng ăn chay thì không có chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, chém giết lẫn nhau để thỏa lòng dục vọng.
Nếu trong thế giới, ai ai cũng ăn chay, thì thế giới này là cực lạc thế giới.
Giảng giải chi tiết:
Nói về lợi ích của ăn chay thì chúng ta cũng đều đã rõ nói về hai phương diện, về phương diện cá nhân, ăn chay đỡ tốn kém. Thực ra, bây giờ mà ăn chay không cẩn thận còn tốn kém hơn nếu mà không biết cách. Ăn những món mà người ta làm rồi bán và quảng cáo nhiều khi còn đắt hơn là ăn mặn. Ăn chay giữ được thân thể nhẹ nhàng đó là điều thứ nhất, thứ hai nữa là giảm thiểu được bệnh tật và thứ ba là hỗ trợ tinh thần cho chúng ta trong chuyện tụ học, đây là ba điều lợi ích đối với bản thân. Đối với xã hội, nếu phổ biến và phát triển được vấn đề ăn chay thì những vấn đề liên quan đến sản xuất công nghiệp, tức là nuôi giết hàng loạt và sát nghiệp sẽ được giảm bớt. Do sát nghiệp giảm bớt sẽ dẫn đến kết quả thế giới sẽ được hòa bình và an lạc. Mầm của chiến tranh là do sát nghiệp và chiến tranh cũng tạo ra sát nghiệp. Cho nên, nhân quả đều thuộc về sát nghiệp cả. Thứ hai, ai ai cũng ăn chay là điều không thể bởi vì ăn hay không ăn là quyền của mỗi người, không có ai bắt ai cả. Kể cả Đức Phật có khuyên chúng ta, có dạy chúng ta nên ăn chay nhưng mà ăn hay không là việc của chúng ta. Đức Phật như vị thầy thuốc, biết bệnh mà cho thuốc, còn uống hay không là việc của người bệnh, không phải lỗi của Phật. Người biết con đường này chỉ cho chúng sinh một con đường, Đức Phật chỉ đường nhưng mà chúng ta không đi thì Đức Phật cũng chịu. Cho nên người ở bên ngoài họ chấp thường xuyên ăn mặn, họ bảo ai cũng ăn chay cả thì các con vật nó sống tràn lan trên thế gian này sẽ giết hết loài người à. Chuyện đó cũng không bao giờ xảy ra được và cũng không bao giờ cả thế giới này đều ăn chay. Một nước ăn chay con khó, một làng ăn chay còn khó, chứ đừng nói cả thế giới, bởi vì đó nó thuộc về nghiệp cảm của chúng sinh. Còn đối với Phật tử chúng ta, người xuất gia, tại gia- đệ tử của Đức Phật chứ không nói đến phạm vi ngoài, những việc này giữ còn khó, trì còn khó, thực hành còn khó, chứ nói gì đến toàn xã hội. Trừ khi nào chúng ta thấy được ý nghĩa, mục đích, lợi ích của nó để mà thực hiện có được kết quả tốt đẹp thì mình mới có thể làm một cách là trọn vẹn từ đầu đến cuối được. Ở trên chúng tôi đã nói, ăn chay phải dùng tâm thanh tịnh, ngay khi chúng ta ta nấu một bữa cơm thôi, nếu chúng ta nấu một bữa cơm với từ bi, trí tuệ, với lòng yêu thương với hết khả năng của mình, để cho mọi người trong gia đình có một bữa cơm ngon, có một sức khỏe tốt thì tự mọi người cũng sẽ cảm nhận được tình yêu thương, tinh thần đó nó thấm vào ở trong bữa ăn mà chúng ta nấu. Nấu một bữa ăn với cái tâm sân hận thì lửa sân nó cũng ngấm vào thức ăn ấy được truyền vào thức ăn và làm cho người cái thức ăn đó cũng sẽ nhiễm sân đó, cái si đó, cái tâm dục đó ở trong thức ăn. Cho nên chay hay không phải xuất phát từ tâm của chúng ta, rồi mới đến những thứ vật chất khác. Trong khi chúng ta làm như vậy, nếu phật tử chúng ta tu pháp môn niệm Phật, nhặt rau cũng niệm Phật, rửa rau cũng niệm Phật, nấu cơm cũng niệm Phật thì bữa cơm đó nó là cơm ở cõi trời Hương Tích, cơm đó là cơm ở cõi nước của Đức Phật A Di Đà và thức ăn đó nếu còn có một chút tàn dư các thứ độc nào, do người sản xuất cố ý hoặc vô tình tạo ra, bằng tâm từ bi của chúng ta cũng có thể hóa giải được độc tố trong thức ăn. Cho nên khi ăn là Đức Phật khuyên chúng ta phải tĩnh tâm, phải niệm Phật. Chư Tăng ăn còn phải có nghi thức đọc Kinh, bố thí cho cả quỷ thần, cho những người đói khát, dùng tâm từ bi như thế thì mới có thể hóa giải. Tại sao trước khi ăn chúng ta phải niệm Phật, không phải là một nghi thức bình thường mà với tâm thanh tịnh, với chí tâm niệm Phật chính là phương pháp để chúng ta hóa giải độc trong thức ăn. Vào thời Đức Phật còn tại thế, lúc bấy giờ ngoại đạo rất căm ghét Đức Phật và đệ tử của Đức Phật vì bao nhiêu tín đồ của ngoại đạo đi theo Phật hết, họ mất tín đồ, họ tìm cách giả vờ theo Phật và thỉnh Phật và chư Tăng đến để dùng cơm họ cúng dàng trai tăng. Nhưng trong thức ăn đó họ đã ngầm cho thuốc độc vào, mà Đức Phật biết trong thức ăn có thuốc đôc, nhưng Ngài và chư Tăng vẫn đến. Đức Phật và chư Tăng vẫn cứ thế ăn nhưng hôm đó Đức Phật ngăn chư Tăng lại và yêu cầu chư Tăng tĩnh tâm tọa thiền, sau khi tọa thiền xong, Đức Phật dạy chư Tăng tụng một thời kinh ngắn, mọi người đọc theo Đức Phật sau đó ăn – Đức Phật là bậc thánh thì thuốc độc không làm gì được, nhưng đệ tử của Đức Phật còn rất nhiều người phàm phu, nhưng tất cả mọi người ăn không ai bị ngộ độc thức ăn và ra về. Ngoại đạo cho rằng hay là do chưa cho thuốc độc, hay do thuốc độc không có hiệu nghiệm, họ bỏ thức ăn đó còn lại ra ăn thì tất cả đều bị ngộ độc mà chết. Sau đó Ngài A Nan có hỏi Đức Phật và Đức Phật nói thức ăn hôm nay có độc và ta dạy các ông pháp niệm Phật, tụng Kinh trước khi ăn nhằm hóa giải độc tố trong thức ăn. Điều đó trong Phật pháp gọi là sướng tăng bạc, đọc câu tam bát la già đá- câu chú đó có khả năng hóa giải độc tố. Vì thế chúng ta ăn với tâm thanh tình, với tâm niệm Phật, trước khi ăn thì chúng ta niệm Phật mười câu thôi, chú tâm và quán chiếu đến tất cả, dùng tâm từ bi, quán chiếu thức ăn, làm cho các độc tố trong thức ăn được hóa giải, làm cho các chúng sinh, quỷ thần cũng sinh tâm hoan hỷ và khi đó chúng ta ăn cũng với tâm từ bi và trí tuệ như vậy, tất cả các loại thức ăn đó đều giúp cho chúng ta có được tinh thần lành mạnh, sức khỏe tốt đẹp, và đó chính là phương tiện để giúp cho chúng ta vào được định, tức là cận định. Niệm Phật dễ đạt được nhất tâm bất loạn, tọa thiền dễ vào được cảnh giới của thiền định, tu tập sẽ nhanh chóng có được kết quả tốt đẹp.
Bài hôm nay xin được kết thúc ở đây. Cầu chúc các vị luôn luôn có được thân tâm bình an, tâm thanh tịnh chính là trai giới cao nhất.
A Di Đà Phật!
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 9 : ĂN CHAY
ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 27.03.2022
GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI



