LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA ( Phần Tiếp Theo )

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 A Di Đà Phật.

Kính thưa đại chúng, hôm nay chúng ta tiếp tục bài về Bổn phận của Phật tử tại gia, hôm trước đã nói đến các phần bổn phận này, phần thứ tư là cách xưng hô và một số nghi thức cần thiết đối với Phật tử tại gia khi tới chùa. Xin mời các quý vị phát tâm đọc bài cho đại chúng.

Kinh văn:

IV. CÁCH XƯNG HÔ VÀ MỘT SỐ NGHI THỨC CẦN THIẾT CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA  

Ngoài những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia còn cần phải biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quý vị Tăng già, và những nghi thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm kinh v.v… Ðã là Phật tử, thì những điều này, mặc dù là hình thức, cũng không thể không biết đến.

1. Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng già: 

Phật tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư tăng cho phải phép:

a) Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật”, với vẻ mặt hoan hỷ, làm cho mọi người cũng đều hoan hỷ với mình. Lối chào ấy biểu lộ một tình cảm đậm đà, còn hơn lối chào bắt tay của người Âu Tây. Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật, là để nhắc rằng ai cũng có Phật tánh (bản tánh A Di Ðà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh độ và cuối cùng sẽ thành Phật.

b) Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư Tăng bằng Huynh hay Sư huynh hay Ðạo hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị ấy là đồng sư.

Những tiếng Thượng tọa, Ðại đức không nên quá lạm dụng, không phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng tọa hay Ðại đức được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều niên lạp (tuổi đạo), và đối với mình chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng tọa hay Ðại đức. Ðối với các vị bổn sư, các vị Tăng già mình thường quen biết, dùng chữ “Thầy” là phải cách và đầy đủ ý nghĩa nhất. Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy bảo mình trên đường tu tập. Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng tọa hay Ðại đức có vẻ xã giao kiểu cách, đãi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng danh từ Thượng tọa và Ðại đức. Chúng ta nên thận trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi bị người ngoại đạo hiểu lầm là quí vị Tăng già muốn được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh.

c) Trước khi vào chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giầy guốc ngoài thềm cửa, đừng mang vào điện mà tổn phước. Khi tiến tới điện thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía hữu, theo cách “hữu nhiễu” của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ba hay bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật).

Khi đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước đức hơn là phóng sinh mà không biết giữ.

d) Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ “bát”, mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng. Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của ông Duy-na (dẫn đầu).

Khi lễ Phật, năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ. Khi lạy phải xích qua một bên, vì phía sau còn có chùa thờ Hộ pháp hay tượng Phật và nhường chỗ cho ngôi Trụ trì. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật, đừng quay lưng lại.

đ) Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường, vì kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực mà chào: “A Di Ðà Phật ” là được. Kiêng nhất là cầm quyển kinh mà xá chào người.

Trên đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật tử tại gia phải giữ gìn. Oai nghi của người xuất gia thì nhiều lắm, nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói đến.

Giảng giải chi tiết:

Ở đây, nói về cách xưng hô của Phật tử tại gia đối với người xuất gia, thực ra mỗi miền Bắc, Trung, Nam đều có các cách gọi khác nhau, truyền thống ở ngoài Bắc – chư Tăng Ni – có – cách gọi như thế này:

Người mới vào chùa cạo đầu rồi mà chưa thụ giới pháp gì được gọi là sư chú; Các vị đã thụ Sa Di rồi – gọi là sư Bác; các vị bên Tăng, đã thụ Tỷ Khiêu rồi thì gọi là Sư ông; Các vị lớn tuổi – gọi là Sư Cụ; Các bậc cao đức ngày xưa gọi là Tổ. Đấy là cách gọi cổ truyền, Ni chúng cũng gọi là sư chú sư bác, thụ Tỷ Khiêu Ni thì gọi là sư Già và lớn tuổi hơn nữa thì gọi là sư Thầy, lớn nữa thì gọi là sư Cụ. Đấy là cách gọi truyền thống.

Theo quy định của Giáo hội ngày nay, thì các vị mà đã thụ Tỷ Khiêu rồi thì gọi là Đại Đức, Tỷ Khiêu Ni thì gọi là sư Cô. Các vị lớn tuổi đủ tuổi hạ theo quy định là 25 hạ trở lên thì bên Tăng gọi là Thượng Tọa, bên Ni thì gọi là Ni Sư. 40 hạ lạp trở lên thì bên Tăng được tấn phong là Hòa Thượng, bên Ni thì gọi là Ni Trưởng. Đấy là cách xưng hô theo hành chính của giáo hội.

Còn cách thức chúng ta gọi khi gặp các vị Tăng- Ni thì tốt nhất là theo cách thông thường – chắp tay cúi đầu chào, niệm câu A Di Đà Phật hoặc Nam Mô A Di Đà Phật là được. Khi có việc cần phải thưa hỏi thì tùy theo phong tục ở mỗi nơi, ví dụ như ngoài Bắc này các vị lớn tuổi thì chúng ta bạch Hòa Thượng, cổ ngày xưa thì bạch Cụ. Trong Nam người ta gọi các bậc hòa thượng cũng là Ôn, gọi là sư Ông đấy. Tùy theo cách mọi nơi, thông thường người mà chúng ta chưa quen biết thì chắp tay gọi một câu chung, ta không biết chức tước phẩm vị như thế nào thì gọi chung một câu là bạch Thầy, bởi vì chữ Thầy là dịch ra từ chữ sư. Ở ngoài Bắc, tại sao lại chỉ có sư Bác, sư Chú, sư Ông, sư Cụ bởi vì bên Công giáo- linh mục được gọi là cha, chúng ta không có mà chính ra chữ sư phụ, chữ phụ là cha rồi cho nên không gọi bằng chữ sư phụ mà gọi là sư Ông, sư Ông là phải trên cha, cụ thì phải trên ông. Cho nên, cách mà chúng ta gọi như vậy là để không lẫn với Công giáo gọi là cha. Bởi vì là ông là phải bố của cha, cụ là phải là ông của cha, cách gọi ngày xưa như vậy, nhưng bây giờ ít sử dụng cách thức sử dụng như vậy. Đối với Phật tử Bắc truyền quen xưng niệm câu A Di Đà Phật hoặc Nam Mô A Di Đà Phật. Nam truyền thì chắp tay niệm mỗi câu Mô Phật thôi, chứ không đọc cả câu Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ chào: Mô Phật. Chúng ta là Bắc truyền, tu Tịnh Độ, cho nên quen dùng câu A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Ở đây câu này có nghĩa là vô lượng thọ, vô lượng quang. Đấy là cũng là câu chào, cũng là câu chúc, cũng là điều nhắc nhở bản thân chúng ta phải trở về với tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ, cũng nhắc nhở người đối diện với chúng ta hãy nhớ – các vị cũng có tự tính Di Đà. Câu này cũng giống như trường hợp Ngài Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa: là tôi không dám khinh các ngài, các ngài tương lai sẽ thành Phật- thì đây là một câu nhắc như vậy. Ngoài ra, khi chúng ta gặp nhau, chúng ta cũng chào bằng câu đó để cầu chúc cho các vị được vô lượng thọ, vô lượng quang, tức là được trí tuệ vô lượng, sức khỏe, may mắn được vô lượng phúc. Câu ấy là câu chào hỏi.

Các vấn đề ở phần dưới là những uy nghi, tế hạnh khi vào chính điện, khi tụng Kinh, khi lễ Phật.

Khi Tụng Kinh, khi cầm Kinh thì xin mời các quý vị Phật tử chúng ta nghe lại các bài mà chúng tôi giảng về Phép tắc dành cho Phật tử tại gia, trong đó có hơn 20 chương chứ không chỉ có mấy điều này. Từ nghi thức lễ Phật thế nào, chắp tay như thế nào, rồi thắp hương, rồi tụng Kinh, rồi cất giữ Kinh, rồi cách thức mà chúng ta chào hỏi ứng xử với nhau- đó là những phép tắc mà một người Phật tử tại gia cần phải biết, điều này cũng chính là bổn phận của Phật tử tại gia chúng ta. Bổn phận Phật tử tại gia phải học uy nghi để học các phép tắc quy củ, để mình trở thành một vị đệ tử của Đức Phật một cách chân chính, một cách đúng đắn. Và có như vậy thì luôn luôn chúng ta đi đâu, làm gì, ở đâu chúng ta cũng thể thể hiện được cái phong thái, thể hiện được cái cốt cách của một người Phật tử chân chính. Điều đó là điều mà chúng ta phải đáng tự hào.  Nhiều người đi đến chỗ khác rồi không dám thể hiện, không dám nhận mình là Phật tử. Điều đó là một điều sai lầm, mà chúng ta càng phải tỏ rõ, bất kể ở nơi đâu, ở chỗ nào, phải thể hiện được phong cách của một người đệ tử của Đức Phật và muốn luôn luôn để cho mọi người biết rằng mình là đệ tử quy y của Tam Bảo. Điều đó nhắc nhở chúng ta – một là, chúng ta phải luôn luôn ý thức về bản thân của mình, về trách nhiệm của mình khi chúng ta đối diện với công chúng. Khi chúng ta làm việc với công chúng phải làm thế nào chúng ta không hổ thẹn với cái danh tiếng mình đã là đệ tử của Phật. Nếu chúng ta giấu giếm mình không phải là đệ tử của Phật thì khi mà tiếp xúc ở cái chỗ này, chỗ kia chúng ta sẽ dẫn đến buông lung, dẫn đến là phóng túng, dẫn đến phạm những sự sai lầm. Còn nếu chúng ta xác nhận mình là Phật tử thì rõ ràng bắt buộc chúng ta phải có cách ứng xử cho đúng với danh nghĩa là Phật tử. Cũng giống như người xuất gia. xưa nay vẫn nói là cái áo không làm nên thầy tu, nhưng mà một người tu hành khi khoác một cái bộ áo như này đi ra ngoài đường phải tự trách nhiệm với cái áo mình đang mặc, tự trách nhiệm với cái hình tướng của mình. Mặc dù anh tu thế nào không biết, nhưng mà khi anh cái khoác áo vào, mà anh không có hành vi, cử chỉ, nói năng không hợp phù hợp với cái hình tướng của anh, ấy thì ắt sẽ bị người đời người ta phỉ báng, chê bai và như thế, đòi hỏi những người đã khoác áo đó vào phải trách nhiệm với cái áo mình mặc. Phật tử tại gia chúng ta cũng vậy, đi đến đâu cũng phải trách nhiệm với bổn phận của mình, trách nhiệm với danh nghĩa là đệ tử của Đức Phật để làm thế nào cho phong thái đó được tỏa rạng. Làm thế nào để cho người ta nhìn thấy người ta phải hâm mộ, làm thế nào để cho người ta nhìn thấy người ta muốn theo. Đấy là điều mà Đức Phật nói, tức là chúng ta có những điều như vậy thì được người ta khen ngợi, được người ta tán thán và người ta khâm phục rồi người ta sẽ muốn học theo chúng ta, người ta mới đến với Phật Pháp – đấy cũng chính là bổn phận trách nhiệm của chúng ta đối với đạo. Đấy mới chính là trách nhiệm của chúng ta để hộ trì Phật Pháp. Cho nên, chúng ta đối với chư Tăng là thường xuyên hộ trì cúng dàng, không từ chối sự yêu cầu hộ trì Phật Pháp.

Trong giới luật, đức Phật có nói những trường hợp người cúng và người nhận cúng cả hai đều được lợi ích. Có những trường hợp người cúng được lợi ích, mà người nhận cúng không được lợi ích, có trường hợp là người nhận cúng được lợi ích mà người cúng dàng không được lợi ích. Và trường hợp thứ tư là cả người cúng và cả người nhận cúng dàng, cả hai đều không được lợi ích.

Ở đây có mấy mấy vấn đề, một là nói về người cúng và người nhận cúng- cả hai đều được lợi ích- người nhận cúng dàng, phải đủ đức hạnh để tiếp nhận sự cúng dàng và người cúng dàng cũng phải thành tâm như Pháp- đây mới là hộ pháp chân chính. Nếu cúng dàng những thứ không như kinh, như luật, như Phật sở giáo, cúng dàng những thứ mà Phật không cho phép là phi pháp. Hoặc là, đồng tiền làm lên không phải chân chính mà đem cúng Phật, cúng Pháp, cúng Tăng cũng là cúng dàng phi pháp. Người nhận cũng phải sử dụng đúng pháp mới đem lại lợi ích, tức là bản thân người người đó phải là phúc điền thật sự, có khả năng tu tập và đem lại lợi ích cho chúng sinh thì khi đó cả người cúng và người nhận cúng đều được lợi ích. Cũng giống như chúng ta có hạt giống tốt mà gieo vào ruộng xấu thì không thu hoạch được, phải gieo vào ruộng tốt, người ta gọi là Phúc Điền thì mới có thể thu hoạch được. Đấy là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai, người cúng không được lợi ích, người nhận cũng được lợi ích. Chúng ta không cúng dàng không như pháp, không có thành tâm, miễn cưỡng cúng dàng là không như pháp nên không được lợi ích. Nhưng mà người nhận cúng dàng là người tu hành. Họ tiếp nhận để hóa duyên cho chúng ta sau này, trong kinh Phật nói là thuận hành nghịch hành, thuận duyên, nghịch duyên đều là duyên để độ. Trường hợp đó người nhận vẫn có được lợi ích. Thời Đức Phật có một vị con nhà trường giả, là con một đi xuất gia. Ban đầu bố mẹ cản trở và phản đối quyết liệt, nhưng cuối cùng không làm gì được, cũng đành phải để cho con đi xuất gia. Và từ khi người con đi xuất gia thì bố mẹ đối với chư Tăng gần như là có mối thù. Bởi vì cho rằng vì có Phật, có chư Tăng đã dụ dỗ con trai của họ bỏ đi tu, để cho họ ở nhà là không có người thừa kế dòng họ, không có người thừa kế sự nghiệp. Và vì thế bất kể một vị Tăng nào mà đi qua cửa là đều bị ông bà ấy chửi đổng và xua đuổi không hề cúng dàng bất kể một điều gì. Một hôm, chính người con trai của gia đình đó đã trở về quê và đi ngang qua cổng nhà để khất thực, lúc bấy giờ bố mẹ cũng ở trong nhà ra xua đuổi, chửi rủa. Khi ấy thì có một cô tỳ nữ ở trong nhà mang cái thức ăn thừa mang đi đổ, và vị Tỷ Khiêu ấy đã đưa cái bát ra, để tiếp nhận và xin cái cô ấy là hãy bố thí cho tôi cái chỗ cơm thiu đó. Cô này nói rằng đây là cơm đổ đi, không thể ăn được, vị sư nói là cứ bố thí cho tôi là được. Và cô này đã đã đổ cái thức ăn thừa vào trong cái bác của vị Sa Môn. Khi đó cô ta nhận ra người đang cầm bát xin thức ăn thừa đó chính là cậu chủ của mình ngày xưa, bởi nhìn cái cổ tay có một vết bớt và lập tức là chạy vào trong nhà báo cho ông bà chủ được biết. Lúc bấy giờ cha mẹ chạy ra thì nhìn thấy người con của mình, đang cầm cái bát cháo thiu, ngồi ăn một cách ngon lành. Thế và ông bà ấy rằng cái bát ấy muốn muốn hất đổ đi. Nhưng mà vị Tỷ Khiêu ấy vẫn giữ lại và ăn. Nếu bây giờ bố mẹ thì quyết định là mời vào trong nhà để để dâng cơm ngon. Nhưng mà vị Tỷ Khiêu đã nói rằng vừa nãy bần Tăng đã nhận đủ sự cúng dàng của ông bà rồi, tức là ông bà ấy chửi, là vị ấy đã nghe đủ rồi, vị đó cho rằng đấy là một sự cúng dàng cho vị ấy. Và cái sự bố thí của người nữ ấy là vị cũng đã nhận đủ và trong khi đó vì chú nguyện cho là gì, cha mẹ hãy hồi tâm chuyển ý sám hối những cái tội lỗi mà đã vi phạm do phỉ báng chư Tăng để tránh tương lai sau này phải đọa lạc. Đấy là một cái câu chuyện cho rằng là mặc dù là người ta chửi bới, người ta phỉ báng, người ta không như Pháp, thì cái đó là cái bất lợi của họ nhưng mà vị Tăng vẫn nhận một cách như Pháp thì vẫn là phúc điền.

Còn cái trường hợp thứ ba là người cúng như pháp, người nhận không như Pháp, thì chúng ta biết rằng là bản thân người xuất gia mà không như Pháp trong khi người cúng dàng thì như Pháp thì người cúng dàng vẫn có được lợi ích. Nhiều cái lợi ích nó nhỏ, cúng dàng gọi là không có phân biệt, không có tâm phân biệt. Nhưng nếu chúng ta trợ duyên mà chúng ta biết rằng đó là một người không như Pháp mà chúng ta vẫn nhắm mắt để mà cúng dàng thì điều đó Đức Phật gọi là si mê tà kiến như thế sẽ không có kết quả. Còn chúng ta không biết là vị đó là như thế nào thì chúng ta vẫn phát tâm bình đẳng cúng dàng thì vẫn thành tựu được công đức của sự cúng dàng. Nhưng nếu chúng ta biết người đó là không như Pháp mà chúng ta vẫn cúng thì chúng ta phạm lỗi, và hỗ trợ cho những người mà tiếp tục sai, họ tiếp tục làm sai.

Và thứ ba nữa là người cúng, cả người nhận đều không giữ pháp thì cả hai đều không có lợi ích- không phải là bất kể sự cúng dàng nào, một điều hộ trì Phật pháp nào mà chúng ta đều thành tựu được công đức. Chỉ có những cái việc mà vật cúng dàng như Pháp, tâm thành kính như Pháp, và người nhận cũng dàng như Pháp – tức là có ba điều kiện như thế thì đấy chính là hộ trì Phật Phát một cách chân chính, và như vậy chính là thành tựu được công đức như Đức Phật đã nói. Thế còn các phần, các uy nghi khác thì chúng tôi xin giới thiệu lại, các vị hãy nghe lại các bài mà chúng tôi đã giảng về phép tắc của Phật tử tại gia để chúng ta thấy rõ hơn được cái bổn phận trách nhiệm, trong đó có nói các bổn phận của từng tầng lớp người một, từ người đi học, từ người làm quan, từ người làm công nhân, từ những các vấn đề liên quan đến bằng hữu, bạn bè v.v. thì các chỗ đó có giảng chi tiết. Cho nên là xin nhắc lại là chúng tôi đã giảng đầy đủ cả Kinh Thiện Sinh nói rõ 6 mối quan hệ mà như đã nói ở trên, ngoài ra còn đã giảng cái bộ phép tắc dành cho Phật tử tại gia. Đây là hai phần quan trọng nhất liên quan đến Phật tử tại gia chúng ta, nó nằm trong phần là cả uy nghi giới luật và cả những bổn phận mà Đức Phật đã nói trong kinh. Chúng tôi cũng đã chia sẻ một cách đầy đủ. Cho nên ở đây không xin không giảng lại nữa và xin các vị dành thời gian nghe lại những các phần đó, chúng ta sang cái phần kết luận.
Như trên đã nói thì chúng ta học nhưng quan trọng là vấn đề thực hành, người ta nói trăm câu nhưng làm không được một câu thì thà bằng không nói. Đối với chúng ta, đối với người học Phật thì nên nói ít làm nhiều, học đến đâu thì phải chuyên tâm hành trì đến đấy. Cho nên đức Phật đã từng nói thế này- cái gì ta làm được ta mới nói, cái gì ta nói là ta làm được. Tức là lời nói và việc làm phải đi với nhau, là Phật tử tại gia, nhiều người đối với uy nghi phép tắc của Phật tử tại gia, đối với Tam quy ngũ giới còn làm chưa xong, nhưng mà cứ muốn thụ Bồ Tát giới hoặc làm những việc này việc khác nó cao xa, cho rằng là những việc Tam quy, ngũ giới thì quá tầm thường, nhưng nếu chúng ta bỏ qua những cái tầm thường ấy mà muốn tiến đến cái cao xa, cũng giống như là bỏ qua việc đào móng, xây móng khi xây cái nhà 2 – 3 tầng, nhà ấy càng xây bao nhiêu sẽ càng nhanh chóng sụp đổ bấy nhiêu. Vì không có nền tảng, cho nên phần mà chúng ta gọi là học phép tắc của Phật tử tại gia, bổn phận của người Phật tử tại gia chính là thuộc đạo đức, môn học thuộc về đạo đức học của đệ tử Đức Phật. Cho nên người xuất gia học giới luật chính là học môn đạo đức. Chúng ta học phép tắc, học bổn phận chính là học đạo đức, và những cái đó nó thuộc về tiêu chuẩn đạo đức. Điều phải thực hiện hàng ngày, phải hành trì hàng ngày, mà muốn hành trì hàng ngày thì rõ ràng là chúng ta phải học, phải hiểu. Khi học hiểu rồi thì mỗi ngày chúng ta hành trì và mỗi ngày chúng ta phải thường kiểm điểm, nhắc nhở. Chúng tôi đề nghị là vào những ngày 14, 30 cuối tháng, chúng ta phải tụng lại năm giới, chúng ta phải đọc lại phép tắc dành cho Phật tử tại gia, chúng ta phải đọc lại Kinh Thiện Sinh- nói các mối quan hệ này, nói các bổn phận này, để nhắc nhở chúng ta để chúng ta nhìn vào đó, soi vào đó để kiểm điểm lại, xem là đối với những bổn phận mà Đức Phật dạy chúng ta đã thực hiện được bao nhiêu, đã làm được những gì rồi và những gì chúng ta chưa làm để chúng ta phải cố gắng chúng ta làm. Nếu chúng ta không thường xuyên đọc, nếu không nhắc nhở thì chúng ta sẽ quên mất, và đã quên thì sẽ không thực hiện được như Pháp. Cho nên là đối với Kinh Thiện Sinh, tôi cho rằng đây là một bộ kinh rất có ý nghĩa, rất thiết thực đối với phật tử tại gia chúng ta, phải nên đọc tụng. Nếu người nào có thể đọc tụng hàng ngày thì càng tốt, càng tốt, nhưng ít nhất mỗi một tháng chúng ta cũng phải đọc được hai lần, vào ngày cuối tháng, vào ngày giữa tháng, để chúng ta kiểm điểm lại nửa tháng. Tụng Kinh Người Áo Trắng chính là kinh nói về 5 giới. Ở trong cuốn phép tắc dành cho Phật tử tại gia, chúng tôi đã đã dịch bản kinh này rồi, cuốn đó chúng ta nên phải phải tụng vào ngày thuyết giới để chúng ta kiểm điểm, để chúng ta sửa mình. Bộ Kinh Thiện Sinh là bản kinh mà Đức Phật nói về bổn phận, có như thế thì chúng ta mới nhớ được. Có như thế chúng ta mới thực hiện đúng cái ý nghĩa là lấy Phật Pháp là tấm gương sáng để soi mình vào, khi mà chúng ta soi như vậy chúng ta mới biết cái gì đúng, cái gì còn khiếm khuyết. Do đó phải liên tục đổi mới, tức là sửa mình, tức là làm mới mình và như thế chúng ta mới dần dần hoàn thiện được phong cách tư thái, đạo đức của người tại gia học Phật.

C. KẾT LUẬN 

Khuyên Phật tử tại gia giữ tròn bổn phận. 

Bổn phận của Phật tử tại gia như vừa trình bày ở trên, tuy kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao kỳ khó khăn phức tạp. Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử, nhưng có chút đức hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi.

Nhưng điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là thực hành, những điều đã hiểu biết ấy. Trong cuộc sống tầm thường hằng ngày, làm tròn bổn phận có nhiều khi còn khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối. Những công việc khó khăn nhưng bất thường này chỉ cần vận động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng thời gian nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày, muốn làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng suốt cả đời. Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: “Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”.

Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm thường của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn. Sự cố gắng này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc chắn thật là đưa dần chúng ta lên đường giải thoát.

LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA ( Phần Tiếp Theo )

ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 17.04.2022

GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN

ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI

Bài viêt liên quan
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 1 : BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA
BỔN PHẬN CỦA PHẬT TỬ TẠI GIA Hôm nay chúng ta bước sang Phật học phổ thông chương trình&n...
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (TỪ ĐẢN SINH ĐẾN THÀNH ĐẠO)
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN BÀI 2: LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (TỪ ĐẢN SINH ĐẾN THÀNH ĐẠO)
LƯỢC SỬ ÐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI (từ Giáng sanh đến Thành đạo) Phần 01 Kinh văn: A. M...
BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18
BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18
LỚP GIÁO LÝ TỊNH ĐỘ – BÀI 4 - BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - BUỔI 18 ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊN...
Được xem nhiều