THIỂU DỤC VÀ TRI TÚC – Phần 1
Ta xin sang bài kế tiếp. Đó là bài thứ tư nói về hai chủ đề, thực ra nó chỉ là một thôi. Từ nhận thức vô thường thì chúng ta có nhận thức về cuộc sống, làm thế nào đạt được thiểu dục và tri túc. Xin mời các vị chúng ta đọc bài.
Kinh văn:
A. MỞ ÐỀ
Người đời phần nhiều thường đua chen, giong ruổi theo vật chất, không biết bao nhiêu cho vừa. Người thiếu thốn tham muốn đã đành, nhưng người dư giả, tiền bạc lấy thước mà đo, thế mà vẫn còn tham muốn.
Ðã tham muốn, thì không bao giờ thấy mình đầy đủ cả. Ngạn ngữ có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy“. Thật đúng như thế, “lòng tham đã không đáy”, thì làm sao đầy được?
Ðể đối trị lòng tham, Phật khuyên chúng ta phải “thiểu dục và tri túc”. Trong Khế kinh có nói: “Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệc bất xưng ý“. Nghĩa là: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, trái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ý.
Vậy muốn được sung sướng an vui, chúng ta cần phải thiểu dục và tri túc.
Giảng giải chi tiết:
Xã hội ngày nay chạy theo nhu cầu vật dục, tức là sống để thỏa mãn những các nhu cầu về vật chất, và người ta cho rằng xã hội càng tiến bộ bao nhiêu thì càng kích thích lòng tham dục của người ta lớn lên bấy nhiêu, và chúng ta thấy nó sẽ tạo nên sự phân cực giàu nghèo trong xã hội- người ăn không hết, kẻ lần không ra. Và nó tạo nên một sự bất bình đẳng, đấy là cái thứ nhất. Thứ hai nữa là vì tham lam không có biết dừng, cho nên người ta đã tác động vàc tự nhiên, khai thác tự nhiên một cách thái quá và sử dụng vật chất mà con người tạo ra một cách quá lãng phí. Chính vì lý do đó mà Đức Phật có chủ trương, hướng dẫn các đệ tử của mình sống cuộc sống là phù hợp với tự nhiên và ở cái mức độ là thiểu dục và tri túc. Ở đây, thiểu dục tri túc được cho rằng nếu mà mọi người cứ sống nghèo khổ thì làm sao xã hội tiến bộ được, sự tiến bộ của xã hội thì đức Phật không đánh giá bằng sự tiến bộ vật chất. Vì đấy quan điểm có khác nhau. Những người sống nặng về vật chất thì người ta cho rằng vật chất hiện đại là đánh giá cuộc sống hạnh phúc. Nhưng mà đối với những người học Phật và sự chứng nghiệm của đức Phật thì Đức Phật cho rằng vật chất không phải là cái đem lại hạnh phúc. Thiểu dục tri túc phải đặt vấn đề từ cái chuyện này. Nếu mà vật chất có thể đem lại hạnh phúc, thì Đức Thế Tôn của chúng ta không cần phải từ bỏ ngai vàng. Bởi vì chúng ta biết rằng là xuất thân của Đức Phật là một vị đế vương trong tương lai, và đã là con vua thì chúng ta biết rồi, dù thời xưa có kém tiến bộ bao nhiêu so với bây giờ thì vẫn là đỉnh cao của cuộc sống, về sung túc, về vật chất phải không. Giàu có là không có ai hơn vua được, sung sướng không có ai hơn vua được, bảo sướng như vua ấy, và quyền lực thì cũng không ai lớn hơn ông vua được. Và Đức Thế Tôn thì đã đạt đến mức cao nhất của của cuộc sống vật chất ấy rồi.
Trong Kinh Đức Phật nói là từ lúc sinh ra, rồi đến lúc Ngài xuất gia, chân Ngài chưa từng đặt xuống dưới đất, phải đi thì ngoài giày dép bằng ngọc bằng vàng thì phải trải thảm. Trên đầu bao giờ cũng phải có bốn cái lọng để che, không để cho một cái chút nắng nào nó chiếu vào người. Ăn thì toàn là sơn hào hải vị. Thời phong kiến chúng ta biết một mâm cơm của ông vua là ít nhất là 100 món. Có món không bao giờ động đũa nhưng mà vẫn phải dâng lên để biểu thị sự sang trọng quý phái. Nhưng mà thực tế phũ phàng là có giầu sang đến đâu, có phú quý đến đâu, có vật chất dồi dào đến đâu thì cũng không thoát khỏi quy luật vô thường. Đó là một điều hiển nhiên. Một điều hiển nhiên và trớ trêu nữa dù vật chất có giầu có đến đâu, sung túc về kinh tế đến đâu và cái bây giờ khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu thì cũng không làm giảm thiểu sự khổ đau cho con người. Điều quan trọng chính là chỗ này, tức là phát triển vật chất kinh tế, phát triển để cho đời sống nhân dân được giàu có, sung sướng nhưng vẫn đau khổ bình thường, có giàu thế giầu nửa họ vẫn khổ, cho nên là người giàu có cái khổ của người giàu, kẻ nghèo có cái khổ của kẻ nghèo, không có ai không có khổ, chỉ có người thiểu dục tri túc thì không khổ thôi. Cho nên ở trong đây mới dẫn kinh, đoạn kinh này là nói ở trong Kinh Di Giáo – người mà không biết đủ, dẫu ở sống ở trên thiên đường vẫn thấy thiếu thốn, tức là người giàu có đấy bây giờ chúng ta thấy là những cái người tỷ phú Việt Nam có thể là một ngày người ta tiêu một tỷ đồng, sống trong cả 100 năm cũng không hết được tiền, bởi vì người ta có ngàn tỷ vạn tỷ, mỗi ngày người ta tiêu ăn tiêu một tỷ cũng không hết được được tiền nhưng họ vẫn khổ, họ vẫn phải kiếm tiền, họ vẫn phải tiếp tục lo mọi mọi thứ họ đâu có được dừng nghỉ, họ có muốn nghỉ học cũng không nghỉ được, muốn dừng cũng không dừng được, công việc cứ tiếp tục lôi họ đi, chưa nói chuyện tạo tội, tạo phúc ở trong đó mình cũng không nói, nhưng mà họ vẫn đau khổ bình thường, họ vẫn phiền não một cách bình thường, và cái giầu có ấy không làm cho nhiều khi họ cũng cũng nhận được cái niềm vui của của sự giàu có ấy. Nhưng mà sự giàu có ấy, Đức Phật nói rằng là giống như một đứa trẻ con khờ dại, vì ham một chút mật ngọt ở trên đầu cái lưỡi dao và nó thè cái lưỡi nó liếm chút mật, vì không biết cái nguy hiểm của lưỡi dao. Cho nên, khi liếm mật đó thì mật ngọt nó vừa mới tới lưỡi thôi, nó cũng cảm nhận được một chút ngọt của của mật, nhưng mà cái lưỡi của nó thì đã đứt rồi. Đó không phải thiểu dục tri túc. Bởi vì tất cả mọi vật chất nó đều đem lại cái niềm vui cho người ta, không hề nói là không có hạnh phúc, nó có hạnh phúc, người ta có hạnh phúc trong đó. Nhưng mà sau hạnh phúc đó thì Đức Phật nói nguy hiểm rất nhiều, đau khổ còn nhiều hơn và những thứ đó dẫn đến nghiệp báo khổ đau thì nó còn nguy hiểm hơn nhiều, nó giống như là cái lưỡi dao cắt đứt lưỡi vì một chút mật ở trên đó. Thì đây chính là vấn đề mà đặt ra là tìm hiểu về chuyện là tại sao lại phải thiểu dục tri túc. Chúng ta nói rằng là đời sống xã hội bây giờ người ta phát triển như thế, mà lại cứ chủ trương thiểu dục tri túc. Cho nên chúng ta biết rằng cuộc đời của Đức Phật chính là biểu tượng của sự thiểu dục tri túc này. Cho nên là cả cuộc đời của Ngài là gắn với thiên nhiên, sinh ra là trong vườn cây, tu hành cũng ở trong rừng, thành đạo dưới gốc cây, tối ngủ cũng ở dưới gốc cây, giảng kinh thuyết pháp trong rừng cây và đến khi nhập niết bàn đức Phật cũng ở giữa rừng cây. Đó chính là thông điệp sống hòa thuận với thiên nhiên, không có làm tổn hại thiên nhiên. Cuộc sống của đức Phật là không hề tổn hại đến thiên nhiên, mà chỉ nhận từ thiên nhiên ban tặng cho và không có làm hại đến thiên nhiên. Cho nên Đức Phật nói như thế này này- giống như ong đi tìm mật, chỉ hút kinh nhụy của nó, một chút mật ở bên trong nhưng không làm tổn hại hương sắc và con ong nó còn giúp cho cái hoa đó nó được thụ phấn mà ra hoa kết quả. Thế thì cuộc đời của đức Phật và những người tu hành cũng phải như vậy, tức là làm thế nào cho cuộc đời nó phải được tốt lên, chứ đừng có mà lấy cái gì của nó. Mặc dù có lấy một chút nhưng mà cái bù đắp lại là chính làm cho cuộc đời thăng hoa và đấy chính là cái cái tinh thần thiểu dục tri túc của Đức Phật. Chúng ta sang nội dung chính -chính đề.
Kinh văn:
B. CHÁNH ÐỀ
I. ÐỊNH NGHĨA
Thiểu dục là muốn ít: Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có. Như muốn có cái nhà ở vừa sạch, vừa che kín nắng mưa; cần đi cho mau, muốn có một phương tiện giao thông gì cho tiện lợi, chỉ cốt đỡ mỏi chân, đỡ tốn thì giờ là được, chứ không muốn một chiếc xe hơi lộng lẫy, mấy trăm nghìn, quá sức tài chánh của mình.
Biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng đều an phận tùy duyên. Ðối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy mình có đủ dùng rồi, không tham cầu nhiều hơn nữa, mà phải khổ sở về tinh thần.
II. NGƯỜI ĐỜI THƯỜNG THAM MUỐN NHỮNG GÌ?
Người đời thường bị năm thứ tham muốn sau đây sai khiến:
a) Tham muốn tiền của
b) Tham muốn sắc đẹp
c) Tham muốn danh vọng
d)Tham muốn ăn ngon
đ) Tham muốn ngủ kỹ.
– Người tham muốn tiền của, thì tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng cò bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn còn mong muốn được làm giàu thêm nữa.
– Người tham muốn sắc đẹp, thì suốt đời giong ruổi đi tìm hoa; thấy ai có nhan sắc là mê mết, tìm cách nầy cách khác để gần gũi cho kỳ được. Một khi đã thỏa mãn, thì lại ruồng bỏ người đẹp nầy để chạy theo người đẹp khác; luôn luôn bị vật dục sai khiến, mất hết cả nhân cách.
– Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo chức cả, quyền cao, tiếng hay, danh tốt. Họ lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, để mong được cái địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm mọi cách để nắm giữ cho được cái hư danh.
– Người tham muốn ăn ngon, thì suốt đời lân la bên cạnh những cao lương mỹ vị, quanh quẩn bên những tiệc bàn, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ. Thế giới của họ thu hẹp lại trong những món ăn và những người bạn rượu.
– Người tham muốn ngủ nghỉ, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường; ăn xong lại nghĩ chuyện đi nằm, nằm là ngủ, ngủ xong lại muốn ngủ nữa, mất cả tự chủ của mình.
Tóm lại, khi đã tham muốn những thứ ấy, thì cuộc đời của những kẻ ham muốn kia, chỉ còn thu hẹp lại trong sự ham muốn của mình, và làm tôi mọi cho vật dục mỗi ngày mỗi thêm chặt chẽ. Xét cho cùng thì những sự tham muốn trên, ngoài sự tham muốn danh vọng là do lòng kiêu căng ngã mạn, còn các thứ tham vọng khác, đều do ngũ dục là động lực chính cả. Ngũ dục là: Sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, và xúc dục.
– Sắc dục là gì? Là nhãn căn đối với sắc trần, sanh tâm tham muốn. Trong thì “chánh báo” là thân phần của nam nhơn hay nữ nhơn: Mày tằm mắt phượng, môi đỏ má hồng… Ngoài thì “y báo” là vật dụng của thế gian: ngọc, ngà, châu báu, vật quý đồ xưa, sắc màu lộng lẫy…Những món ấy, đại đa số người vừa trông thấy liền sanh tâm tham ái.
– Thanh dục là gì? Là tai nghe tiếng hay, tâm sanh say đắm; như tiếng ca, giọng hát, khúc lý câu tình, âm điệu du dương, khêu gợi tâm dục của người, sanh tâm đắm nhiễm.
– Hương dục là gì? Là lỗ mũi khi đối với hương trần sanh tâm tham muốn; như dầu thơm ngào ngạt, phấn sáp nồng nàn v.v… Những món hương trần ấy, khiến cho người ngửi đến thì sanh tâm ưa thích đắm nhiễm, mơ tưởng vẩn vơ.
– Vị dục là gì? Là khi lưỡi đối với mùi vị, sanh tâm tham đắm, như các mùi vị thơm tho, ngọt bùi, chua chát, mặn lạt, mỡ thịt, cá tôm, chả gỏi nem bì, những đồ cao lương mỹ vị.
Vẫn biết nhân loại đối với sự ăn uống phải cần dùng nhiều món để nuôi sống mà làm việc. Thế nên cả nhân loại ai chẳng công nhận nó là điều cần yếu nhất, nếu ăn uống kém thiếu, thì thân thể phải ốm gầy. Nhưng ta nên xem sự ăn uống như là uống thuốc, để chữa bịnh đói khát mà thôi. Nếu quá tham món cao lương mỹ vị, chỉ biết lo sống để mà ăn, thì con người có chi là cao thượng? Phật nói: “Chúng sinh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món “do đất sinh ra”, nên thân thể rất nặng nề”.
– Xúc dục là gì? Là thân thể khi giao thiệp với xúc trần, sanh tâm tham muốn. Bố vải thô sơ, mặc vào mình biết nhám; lụa là, gấm nhiễu xuông, vào mình biết trơn láng, gỗ chạm vào mình biết cứng, bông đụng vào mình biết mềm v.v… Những vật gì mềm mại thì sanh tâm ưa thích, những vật gì cứng nhám thì sanh lòng ghét bỏ.
Giảng giải chi tiết:
Ở đây trước hết là định nghĩa nói về thiểu dục và tri túc. Thiểu là thiếu thốn, dục là ham muốn, thiểu dục là bớt ham muốn. Người ta cho rằng nếu cuộc sống không có ham muốn thì vô vị, không thể phát triển được. Nhưng mà ở đây người ta nhầm lẫn giữa hai khái niệm- giữa ước nguyện, trí nguyện với ham muốn là hai vấn đề khác nhau. Người ta cho rằng là quan niệm thiểu dục của tri túc của đạo Phật là làm chết đi sự phát triển của nhân loại và cho rằng là như thế khiến cho người ta không còn muốn làm gì cả. Không phải, hiểu thế là hoàn toàn sai lầm. Thiểu dục là ít ham muốn trong điều kiện của mình, ít ham muốn trong hoàn cảnh của mình, ít ham muốn trong thực tế con người của mình. Tôi nói ví dụ thế này là chúng ta phải hiểu. Thiểu dục là một người mà rất nghèo, cơm không có mà ăn nhưng mà lúc nào cũng nghĩ đến cao lương, mỹ vị. Mặc dù là họ ăn cơm với muối thì người đó vẫn không phải là thiểu dục, bởi vì họ không biết vừa đủ trong cái gì, trong cái hoàn cảnh, điều kiện của họ là cái người rất nghèo, họ là người rất khó khăn. Họ vẫn còn phải vay nợ ăn từng ngày hoặc là đi ăn xin nhưng mà vẫn muốn ăn những cái đồ ngon, vẫn muốn là vay tiền để mà tiêu xài sang thì đấy không phải là cái người thiểu dục, phải không phải thiểu dục.
Nhưng cái người người ta có tiền trăm bạc triệu nhưng người ta vẫn là cái người thiểu dục. Bởi vì có những người tỷ phú trên thế giới một ngày người ta ăn và sử dụng cho người ta vẫn ở trong cái mức là gì? Như những người bình thường nhất thì đấy là người thiểu dục, người ta có tiền chứ người ta không có sử dụng cái đó, mà người ta sử dụng cái đồng tiền của họ để phục vụ cho lợi ích của của cộng đồng, hoặc là người ta làm cho người khác tốt đẹp thì cái chuyện là người ta làm giàu và phát triển cái sự nghiệp của ta không có cái gì tội lỗi cả, mà không có gì đi trái với điều đức Phật dạy cả. Cái thiểu dục là chúng ta phải biết thế, tri túc tức là gì, biết đủ, biết đủ trong cái điều kiện của mình, biết đủ trong hoàn cảnh của mình, biết đủ trong cái hiện tại của mình. Đấy mới chính là vấn đề thiểu dục về tri túc mà nội dung Phật pháp muốn đưa đến với chúng ta. Và để làm sao để chúng ta quản lý được cái tâm của mình, quản lý được cái 6 căn của mình đối với các đối tượng của nó. Bởi vì là thiểu dục là hiểu dục đối với cái gì, tri túc là tri túc được cái gì. Nên là phải có cái đối tượng phải không? Và trong cái đối tượng ấy thì phải đặt trong cái hoàn cảnh của cái bài trước là vô thường của chúng ta, và trong cái hoàn cảnh hiện tại con người và cái gì, nói như là cái cái phần trên là nhân quả đấy, nhân quả của chúng ta, thiểu dục tri túc trong phạm vi nhân quả của chúng ta. Cho nên ngày xưa khi mà giảng thiểu dục tri túc thì có một ông vua là ông Lương Vũ Đế, ông bảo vậy thì từ ngày mai trở đi là Trẫm chỉ ăn cơm rau giống như người dân bình thường thôi, thì Ngài Chí Công bảo không. Xin thưa Bệ Hạ cái hiểu dục của bệ hạ không phải là ngày mai bệ hạ giảm xuống chuyện là ăn cơm rau như người bình thường, mà trong cái bữa cơm của bệ hạ là gì? Bớt cái chuyện sát sinh đi là được. Lý ra mọi khi là ăn 100 món thì bây giờ phải ăn 10 món thôi. Nhưng mà nếu mà bệ hạ mà ăn rau, những người bình thường không đủ sức khỏe để lo cho sự nghiệp của cả cái nước này, thì đấy không phải là thiểu dục. Đấy không phải là thiểu dục và đấy không phải là tri túc. Một cái tri túc của ông vua. Nó khác với cái chuyện là tri túc của người dân. Mong rằng là những cái món gì mà bệ Hạ không ăn thì đừng có, trong nhà bếp là bớt cái sự sát sinh. Bớt cái chị sự là hoang phí, xin bệ Hạ là quan tâm hơn đến cái người nghèo khổ và dân chúng. Những người mà làm ruộng thì cung cấp cho người ta hạt giống, người đi buôn thì cung cấp cho người ta tiền, tức là đấy gọi là tạo phương tiện cho dân để tạo ra cuộc sống thì đấy chính thiểu dục và tri túc của Bệ Hạ. Câu trả lời là cực kỳ hay đấy. Quan điểm là có phải là bây giờ tôi làm ông Vua tôi cũng phải thiểu dục tri túc. Tôi ăn cơm như người nghèo bình thường quá, phải không phải ở trong cái điều kiện của ông ấy, một mọi khi là ông ấy xa phí. Một ngày ông ăn 100 món thì bây giờ ông ấy giảm xuống ba chục món là được rồi. Như thế là ông thiểu dục trong cái phạm vi của ông ấy rồi nhưng mà chúng ta lại là nghèo, thở đi kiếm từng từng bữa một nhưng mà muốn ăn sang, muốn mặc đẹp. Ví dụ nhiều người là nhà rất nghèo nhưng mà mà muốn ăn diện, chẳng hạn thấy có quần, có áo là phải mua bằng được rồi cũng muốn mặc để đi để khoe, cho rằng là ta cũng là cao quý, đây ta cũng là sang đây cái đó mới là không hiểu dục, cái đó mới là không tri túc. Bởi vì trong cái điều kiện của anh nó không cho phép như vậy thì cái ăn mặc của anh là là đã vượt qua cái cái phạm vi mà của cả anh đã có. Cho nên ở đây là thiểu dục. Tri túc, là cái thiểu dục di túc gì trong cái phạm vi, điều kiện, hoàn cảnh của chính bản thân mình như thế thì thiểu dục tri túc là nó có đối tượng của nó thì ở cái phần nội dung ấy là chỉ ra chúng ta có năm cái thứ ham muốn là năm cái đối tượng mà chúng ta phải thiểu dục tri túc, đó là tài sắc danh thực và thùy. Ở đây ví dụ ham muốn về tiền của, ai cũng mong muốn có tiền của, vì chúng ta không có tiền của, chúng ta không tồn tại được, chúng ta không có tài sản chúng ta không sống được. Đó là một lẽ đương nhiên. Phật có một câu chuyện về bữa ăn hàng ngày, Đức Phật nói – con người ta thì bỏ sức khỏe của mình ra để kiếm tiền, sau đó rồi đem tiền đó lại biến nó thành thức ăn uống hàng ngày. Chúng ta vẫn thường là như vậy, tức là bán sức khỏe để lấy tiền, rồi lấy tiền mua thức ăn để nuôi sức khỏe và nó cứ quanh quẩn chỉ trong một vòng ấy thôi, không có khác gì cả. Và Đức Phật ví chuyện là bữa ăn hằng ngày nếu mà trong cái tình trạng như thế thì giống như ăn thịt con mình. Thế thì ở đây nói đến đối với tài sản thì những cái người bảo bây giờ nếu mà không ham muốn tài sản thì làm gì ra người có những người mà mà có xí nghiệp, có kinh doanh rồi tạo nên công ăn việc làm. Bảo bây giờ cái một cái ông chủ, một cái doanh nghiệp là có hàng vạn công nhân chẳng hạn. Tôi bây giờ tôi cũng là thiểu dục tri túc như những người nghèo khổ thôi, tôi mai tôi bỏ tôi không làm nữa. Các vị đặt vấn đề nếu mà nói như thế thì một vạn công nhân ngày mai sẽ thất nghiệp, chết đói thì đấy có phải là thiểu dục không? Bởi vì điều kiện của người đó chúng ta chưa bàn đến chuyện là kiếm tiền có chân chính hay không thì không thể đặt cái vấn đề là cái người mà người ta có khả năng tạo ra tài sản cho mình và tạo ra tài sản cho xã hội mà người ta phải thiểu dục về cái chuyện là không ham muốn về tiền của. Bởi vì tiền của nó cũng có đem lại lợi ích thiết thực cho cho xã hội. Nếu mà ai cũng không có tiền của thì rốt cục là sống bằng cái gì. Nhưng ở đây nó cái tham về tiền của, tức là anh tham một cách thái quá, anh tham nó vượt khả năng của anh và anh tìm mọi cách để kiếm được cái đồng tiền đó, bất chấp mọi giá trị thì cái đó nó thuộc là tham dục. Chứ còn cái tham của anh, có những cái tham nó rất là chân chính. Tôi ham muốn là làm thế nào cho toàn thể dân tộc tôi được bình an, tôi ham muốn thế nào toàn thể dân tộc tôi được được no ấm – đó là một trí nguyện. Đức Phật ra đời là muốn làm sao cho tất cả chúng sinh đều được hạnh phúc. Làm sao rằng đó là một cái tham được, đó thuộc về trí nguyện, chứ còn về cá nhân rõ ràng là người ta làm giàu cho xã hội thì có phần mà người ta được hưởng một cách thích đáng. Thế thì những người kinh doanh một cách thích đáng, kinh doanh một cách chân chính, họ tạo được công ăn việc làm cho mọi người, tạo sự ổn định phát triển cho xã hội và bản thân họ có được thu lợi và họ biết sử dụng đồng tiền đó một cách thích đáng thì không có gì là tội lỗi ở trong vấn đề này cả, không có cái gì là tội lỗi trong chuyện là người ta gọi là ham làm giàu như thế. Ngay chuyện sử dụng đồng tiền nói ở trong kinh Thiện sinh là – phải biết đầu tư một cách thích đáng, tức là tiền mà kiếm được là phải để một phần ba để đầu tư mở rộng sản xuất và rõ ràng mở rộng sản xuất là người ta phải thu được thêm tiền, người ta phải tạo được thêm công ăn việc làm cho người khác mà người ta phải thu được lợi thêm ở trong cái đó. Nhưng mà người ta vẫn gì vẫn là người thiểu dục, tức là người ta vẫn biết đủ trong phạm vi của người ta, tức là người ta không có ham muốn thái quá, người ta cũng không tìm mọi mánh khóe để kiếm được tiền và người ta gì không có thu lợi bất chính đấy. Cái gọi là ham về tiền của là ở cái chỗ đó. Người mà ham mê tiền của thế này mới thành tham này- không có khả năng để kiếm tiền một cách chân chính và tìm mọi cách để kiếm tiền và bất chấp mọi cái giá trị của nó, tức là dùng mọi thủ đoạn đấy thì cái đó nó thuộc về tham và đức Phật nói nó giống như con thiêu thân tự gieo mình vào lửa, cho nên có những người chết vì tiền của là nó ở cái chỗ này- điểu tham thực tắc vong, nhân tham tài tăc tử – tức là người ham tiền thì chết, con chim nó tham mồi thì mất mạng đấy, cái đó nó thuộc về tham tài. Tham một cách thái quá tham không biết điểm dừng và kiếm tiền một cách phi pháp. Tham sắc cũng vậy. Sắc ở đây thì nó có 2 cái. Ở đây chủ yếu là đề cập trong bài vừa rồi, chúng ta đọc là chủ yếu đề cập đến sắc dục nam nữ và cái đó thuộc cái cố hữu của con người. Bởi vì chúng ta sinh ra ở cõi dục thì có cái ham muốn này. Nhưng mà ngoài cái sắc dục nam nữ thì cái ham sắc này thì nó còn liên quan đến cái là ham cái đẹp, chứ không phải là chỉ có ham sắc dục người nam thích người nữ, và người nữ thích người nam đâu. Có những người, chuyện sắc dục người ta rất bình thường, nhưng mà người ta theo đòi một cái đẹp khác ví dụ như là những người họa sĩ thì người ta rất ưa cái đẹp. Những thi nhân, người ta rất ưa cái đẹp và luôn luôn người ta tìm thấy những niềm vui trong cái đẹp đó. Nhưng mà trong những cái ham muốn về cái đẹp đó cũng có những ham muốn bất chính, có những ham muốn chân chính, cho nên cái thuộc mà ham muốn bất chính thì nó mới trở thành tội lỗi. Còn cái ham muốn mà chân chính thì nó là một cái ham muốn tốt đẹp. Chúng ta biết rằng nếu mà nói đến đến người đẹp ở trên thời gian này, không có ai đẹp hơn Đức Phật nữa. Nam giới có 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, nếu nữ giới không ai đẹp hơn Bồ Tát Quan Âm. Tại sao các ngài có cái hình đẹp như vậy-Trải qua 100 đại kiếp tu công đức mới có cái đẹp như vậy. Không phải cái đẹp nó có tội. Cái đẹp nó không có tội. Cái tội là bởi vì người ta ham nó thôi, chứ cái đẹp nó không có tạo ra cái tội lỗi. Cho nên cái tội là do người ta ham đắm, muốn chiếm đoạt nó mà không biết tự lượng sức mình thôi. Cho nên là cổ nhân người ta có câu thế này này- Tửu bất túy nhân nhân túy tửu, hoa bất mê nhân nhân tự mê. Rượu nó có làm say ai đâu, chỉ vì người ta uống nó người ta mới bị say, mới bị nó làm cho nghiện. Cái đẹp của người phụ nữ, cái đẹp của người nam giới nó có mê hoặc ai đâu, hoa nó có làm cho ai bị mê mẩn đâu, chỉ vì người ta mê nó thôi Vậy tại sao lại đổi tội cô kia đẹp làm tôi mê cái đẹp của người ta. Làm sao người ta tạo thành tội lỗi trong cái cái đẹp của người phụ nữ? Không hề có cái tội lỗi nào trong cái đẹp của người đàn ông phải không? Mấy cái đẹp là do anh tham đắm nó, rồi anh mê mẩn, rồi anh muốn chiếm đoạt rồi anh mới tạo nên mọi thứ cuồng loạn bây giờ, cho nên là yêu không được tìm cách đốt nhà người ta giết người, thì đấy là chính là cái mê nó tạo ra tội lỗi, chứ bản thân là cái đẹp của người ta có có tạo tội đâu, cái tham hay không tham, đắm hay không đắm là nó ở cái vấn đề này, chứ không phải là bản thân cái chỗ kia. Tự do con người ta tạo nên và hiểu cái sai lầm về cái sắc dục. Có những người thích đẹp. Chẳng hạn có người lại ưa quần áo, có bệnh ưa quần áo, một bộ không đủ, trăm bộ cũng không đủ, cứ trông thấy cái bộ quần áo mới nào ra là phải mua bằng được.
Mặc dù không mặc và có khi chỉ mặc một lần bỏ đấy nhưng vẫn cứ phải mua, gọi là nó thành giống như nghiện. Ví dụ như thế thì có những người thì là ưa điện thoại mới, chẳng hạn, cứ cái nào mới nhất ra phải mua dồn hết cả tiền của mua bằng được thì thôi. Để thỏa mãn cái đam mê của mình thì cái đó nó thành tội lỗi bởi vì tất cả những cái tham như vậy nó xâm chiếm hết tâm hồn của họ, nó làm cho họ mê mẩn hoặc không còn nghĩ được cái gì để mà làm cái việc khác nữa. Chứ còn nếu sử dụng những cái đó để mà phục vụ cho đời sống, làm ăn một cách tốt đẹp thì thì bản thân cái điện thoại nó có tội lỗi gì đâu, sử dụng nó vào những cái chuyện tầm bậy tầm bạ nó mới mới tạo nên tội, chứ còn nếu nó là cái để phục vụ con người thì làm sao mà nó sinh ra tội được? Tham danh vọng thì thành tội lỗi, người không đủ thực lực để làm quan nhưng mà lại cứ muốn làm quan, bỏ tiền ra để mua quan chức, đi bằng đầu gối để leo lên cái đó rồi nghĩ rằng đã bỏ ra một tỷ để mua chức quan này thì đến lúc làm quan phải kiếm được năm mươi tỷ thì cái đó thành tội lỗi. Nhưng người có năng lực thật sự muốn cống hiến cho đất nước, muốn cống hiến cho dân tộc, muốn làm việc để phục vụ dân chúng thì làm sao có tội được, và người ta muốn tiến bộ hơn. Hôm nay người ta làm việc ở xã người ta làm lợi ích cho một xã, mai người ta muốn người ta làm quan ở huyện để người ta làm lợi ích cho một huyện thì cái đó thì không có tội. Cho nên là phải phân định là trong cái vấn đề tham này, cái nào nó thuộc trí nguyện, cái nào nó xuất phát từ cái tâm tham dục của tham sân si, thì phải phân biệt được rõ chỗ này, chứ không chúng ta gộp vào cho rằng ai làm quan là đều tham cả. Có những người là người ta làm quan bất đắc dĩ, người ta phải làm nhưng mà người ta làm là có lợi ích thì người ta không tham. Lên chức lên quyền là người ta cử lên để đảm nhận cái trách nhiệm đó. Cho nên mặc dù họ muốn nghỉ nhưng mà dân chúng cứ yêu cầu làm thì miễn cưỡng người ta vẫn phải làm, làm sao mà bảo là tham gia được. Nhưng mà người không có thực lực, không có tài nhưng đến cái tuổi nghỉ hưu rồi người ta bảo anh nghỉ đi mà vẫn cứ cố hạ thấp tuổi đi để làm thêm vài năm nữa, còn kiếm thì cái đó là tham tài. Bảo là tất cả những người làm quan đều tham danh? không phải. Tài- sắc- danh- thực- thùy cũng cũng tương tự như vậy, chúng ta phải hiểu rõ như thế. Và những vấn đề liên quan sắc- thanh- hương- vị- xúc – pháp cũng thế. Sắc là chỉ cho cái vật chất ở bên ngoài. Nếu không cần những sắc đẹp bên ngoài thì chúng ta tạo nên những các cái cảnh trí bên ngoài đẹp để làm cái gì? Tại sao lại phải làm những công viên rồi trồng hoa để đẹp làm cái gì cứ để cho nó lụi tàn có được không? Cái đó không phải là thuộc tham sắc. Rrồi xây dựng nhà cửa, đường xá, phố phường cho đẹp để làm cái gì, mọi người có một cái cuộc sống nó tốt đẹp hơn, nếu mà bảo là không tham sắc trần đẹp thì cảnh giới Tây phương cực lạc đẹp như thế, Đức Di Đà tạo nên nó để làm cái gì? Có phải là Ngài tạo nên nó để tạo nên cái tham không? không phải. Cho nên đối với lục trần ở bên ngoài cũng thế, chỗ nào thuộc tham, chỗ nào thuộc về trí nguyện phải phân định rõ. Chúng ta bảo là thôi thì không có tham sắc cho nên cảnh giới nó cứ để bừa bộn, quần áo bẩn thỉu, mặc kệ không quan tâm gì đến cái chuyện đẹp. Nhiều người bảo tôi làm đẹp cho bản thân tôi không phải là tôi tham đắm cái đẹp của bản thân mà tôi tôn trọng người khác. Tôi ăn mặc sạch sẽ là lịch sự, là để tôn trọng, tôn trọng mọi người, tôn trọng mình. Cái đó không không thuộc tội lỗi, không thuộc chuyện tham sắc. Nhưng nếu hôm nay thấy có nếp nhăn một tí, nếp nhăn làm cho ta buồn không ngủ được, hôm nay nhìn thấy một cái tóc bạc là buồn không chịu được. Mai phải đi nhuộm nó thì cái đó đang rơi vào chuyện đau khổ về cái sắc. Chứ còn tóc bạc là chuyện đương nhiên, không có sao cả. Nếp nhăn là chuyên đương nhiên, không phải đi sửa, không phải đi bơm mặt, đi sửa chữa làm gì cả. Nhận biết nó là vô thường thì sự tự nhiên vẫn vui vẻ với nó không có sao cả. Già thì ta sống vui theo kiểu già, không vướng mắc về cái sắc. Nhưng thấy người kia thấy hôm nay có cây son đẹp quá, mình phải mua bằng được. Mai mà mình không đẹp hơn người ta thì buồn bứt rứt cả đêm không ngủ được thì đó là cái tội là ham sắc. Có hay không ham hay không ở cái vấn đề đó, tức là trong điều kiện mình không có mà cứ muốn có, rồi mình đau khổ về nó, mình tìm mọi cách được nó thì cái đó thuộc tham, chứ nếu có cả cục son người ta biếu tôi chẳng buồn dùng, tôi chắc chẳng tham gì cả, tôi có nhưng tôi không có tham. Đối với năm đối tượng là tài- sắc- danh- thực- thùy, hoặc là sắc – thanh- hương- vị – xúc- pháp nói ở trong phân tích của bài là các Ngài nó không hết các khía cạnh của nó, mà chỉ nói một khía cạnh là những cái đó là thành ra tội lỗi. Nếu xét một cách thông thường như thế thì người ta bảo Phật giáo tiêu diệt tất cả mọi mặt đời sống của con người?! – Không phải, nhận thức rõ ở trên các khía cạnh, cái nào nó thành tham, cái nào nó là có tội và cái nào nó không có tội. Nếu mà bảo là sắc đẹp nam nữ nó có tội thì việc gì Đức Phật phải tu 100 đại kiếp để thành một người có 32 tướng tốt 80 mươi vẻ vẻ đẹp để cho chúng sinh là trông thấy là thích rồi, trông thấy là hâm mộ rồi. Chúng ta cũng tham sắc của đức Phật ?!. Hai vấn đề khác nhau. Anh khởi cái tâm ái dục ở bên trong ấy thì đó nó thành có tội, chứ còn mọi người đẹp đẽ là chuyện đương nhiên. Anh nhìn anh vẫn cứ thản nhiên thì không có tội lỗi gì hết, cái đẹp để cho người ta thưởng thức thôi, nó không có tội, nó tội là vì người ta khởi cái tâm tham đắm bên trong mọi vấn đề của cải vật chất trên xã hội là ở chỗ đó. Nếu chúng ta dung thông được như thế thì trong mọi vấn đề của xã hội phát triển, chúng ta đều có thể sống cái tự tại được. Nay chúng ta xin nghỉ ở đây nhỉ.
A Di Đà Phật!
LỚP GIÁO LÝ PHẬT HỌC CĂN BẢN KHOÁ 2 BÀI 4 : THIỂU DỤC VÀ TRI TÚC
ĐƯỢC PHÁT TRÊN KÊNH YouTube – Facebook CHÙA ĐẠI TỪ ÂN 05.06.2022
GIẢNG SƯ: THƯỢNG TỌA THÍCH TIẾN ĐẠT VIỆN CHỦ CHÙA ĐẠI TỪ ÂN
ĐC: KHU SINH THÁI CAO CẤP ĐAN PHƯỢNG HÀ NỘI



